07/01: Bài 15.Thần chú – Bài 16 Đức Phật Dược Sư

07/01: Bài 15.Thần chú – Bài 16 Đức Phật Dược Sư
Category: Phật Học – Phật học ôn tập-
Posted by: Tbl Đọc: 8277 lần

BƯỚC VÀO CỬA PHẬT Quyển 2 (tiếp theo)

Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú

Bài 15.THẦN-CHÚ

Ở Trung Quốc trước kia, có tất cả mười tông phái Phật giáo: Luật tông, Tam Luận tông, Pháp Tướng tông, Hoa Nghiêm tông, Thiên Thai tông, Mật tông, Thiền tông, Tịnh độ tông, Câu xá tông và Thành thật tông. Tại Nhật bản, còn thêm hai tông nữa là Tịnh độ Chân tông và Pháp Hoa tông, còn gọi là Nhật-Liên tông. Tại Việt Nam ta, ngày nay chỉ còn thấy Tịnh độ tông, Thiền tông và Mật tông. Số Phật tử theo Tịnh độ tông nhiều hơn cả.
Bài nói chuyện hôm nay có chủ đề là Thần Chú nên chúng tôi xin nói vài điều sơ lược về Mật tông: Mật tông hay Chân ngôn tông là một tông phái đại thừa, thờ đức Tỳ-Lô-Giá-Na – còn gọi là Đại Nhật Như Lai – làm giáo chủ bí mật. Bồ-tát Kim Cang kế thừa pháp mầu nhiệm của đức Đại Nhật Như Lai, truyền cho ngài Long Thọ, sau đó truyền xuống tới ngài Long Trí rồi tới ngài Thiện Vô Úy tam tạng, ngài Kim Cang Trí tam tạng. Hai ngài…

… tam tạng vừa kể trên sang Trung Quốc truyền bá pháp bí mật của Mật tông vào đầu đời Đường (618 – 907) …
Người ta thường phân chia ba phái Mật tông: Trung Hoa, Nhật Bản và Tây Tạng. Mật tông Nhật Bản được gọi là Đông Mật. Mật tông Tây Tạng được gọi là Tạng Mật hay Lạt-Ma giáo.
Tại sao dùng chữ Mật? Có Hiển giáo là những pháp môn chứa đựng trong những lời dạy bảo của đức Thích-Ca (Ứng thân Phật) và Mật giáo là những pháp môn mầu nhiệm, bí mật mà các vị Bồ-tát với trí tuệ cao siêu thọ lãnh được trực tiếp từ đức Đại Nhật Như Lai (Pháp thân Phật).
Phương pháp tu hành trọng yếu của Mật tông là tu Tam mật, nghĩa là thân mật, khẩu mật (còn gọi là ngữ mật) và ý mật. Tay bắt ấn là thân mật, miệng niệm chân ngôn hay trì chú là khẩu mật, tâm chuyên vào thiền định là ý mật. Tu cho đến lúc ba nghiệp thân khẩu ý hoàn toàn thanh tịnh thì đạt kết quả. “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây Phương” nghĩa là “Nếu ba nghiệp thường thanh tịnh thì được về Tây Phương đồng với Phật” (1).
Ở đây, mỗi khi tụng kinh, Phật tử chúng ta thường tụng một hay nhiều câu thần chú, mà chúng ta gọi gọn là chú. Điều này cho thấy ảnh hưởng của Mật tông đối với Phật giáo Việt Nam. Thông thường câu chú được đặt ngay ở đầu kinh. Thí dụ như câu chú gọi là lục tự chân ngôn: Án ma ni bát mê hồng. Cũng có khi nhiều câu chú khác nhau được tụng liên tiếp, thí dụ như các câu chú tụng trước khi vào kinh A-Di-Đà: chú tịnh ba nghiệp, chú an thổ địa … Kinh Dược Sư có chú Dược Sư: Nam mô bạc già phạt đế … Kinh A-Di-Đà có chú vãng sanh; Nam mô a di đa bà dạ, đa tha đà đà dạ… Bài chú ở phần đầu của nhiều kinh là chú Đại-bi. Các bài chú khó học nhất là chú Thủ Lăng Nghiêm …
Thần chú hay Chú có nhiều tên gọi: chân ngôn, tổng trì, mạn-trà-la, đà-la-ni. Chữ mạn-trà-la do chữ Phạn mantra phiên âm ra, còn chữ đà-la-ni là do chữ Phạn dhāranī phiên âm ra; hai chữ này đồng nghĩa nhưng chú mantra thì ngắn còn chú dhàranì thì dài hơn. Tiếng Pháp dịch là formule magique, formule sacrée, tiếng Anh dịch là magical formula, cả hai sinh ngữ đó còn dùng những chữ invocation và incantation.
Phật học Từ điển của Đoàn Trung Còn ghi như sau: “Chú là những câu bí mật dùng để hộ trì các nhà tu học khỏi bị sự hại của các ác thần, ác quỷ, ác thú, độc trùng và tránh khỏi tai ương. Có những chú của Phật, chú của Bồ-tát, chú của thần quỷ hộ trợ Phật pháp: đọc câu chú của vị nào thì được vị đó ủng hộ. Chú của nhà Phật khác với chú của bọn tà đạo, là vì chú để ngăn ngừa sự ác nghịch, để được các sự thiện lợi chứ không phải để giết người, hại vật, không phải để gia họa cho người”.
The Seeker’s Glossary of Buddhism cho biết rằng “chữ Phạn mantra có nghĩa là ‘liên kết và nắm vững’, nghĩa là liên kết hết mọi pháp và nắm vững hết mọi nghĩa. Sự thực hành dựa trên sự hiểu biết năng lực của âm thanh một cách khoa học. Chú nổi tiếng nhất là Úm ma ni bát mê hồng (Om Mani Padme Hum).
Trong Dictionnaire encyclopédique du Bouddhisme, tác giả Philippe Cornu cho biết chữ sanskrit mantra gồm man nghĩa là tinh thần và tra nghĩa là che chở; mantra là một formule sacrée để che chở tinh thần của hành giả.
Khi tụng kinh Phổ Môn, chúng ta thấy có câu “chú trớ, chư độc dược, sở dục hại thân giả, niệm bỉ Quán Âm lực, hoàn trước ư bổn nhân” nghĩa là: “những loại bùa chú, cùng là mọi thuốc độc, định làm hại người, nếu biết niệm đức Quán Âm, thì những thứ đó quay trở về hại người dùng”. Chú ở đây cũng nghĩa như đã nói trên, song đây là chú xấu, mục đích làm hại người, còn trớ (đọc khác là thư) là khấn vái quỷ thần mong đem tai họa cho người.
Ngoài đời, chúng ta còn nghe thấy từ ngữ bùa chú. Bùa là mảnh giấy hay miếng vải ghi ký hiệu, hình vẽ … của thày phù thủy, thày cúng, họ nói rằng bùa đó có phép thiêng trừ ma quái hay làm cho người ta mê mẩn tâm thần. Ta thường nghe nói đến bùa mê thuốc lú. Cuốn Tiếng nói nôm na của Lê Gia cho rằng chữ bùa là do chữ bào nghĩa là nắm chặt lấy, cầm giữ. Người khác bàn rằng có lẽ chữ bùa là do chữ phù vì phù nghĩa là bùa (phù thủy, phù phép, thư phù). Chú ở đây cũng dùng với nghĩa xấu.
Có người thắc mắc: “Chú gốc ở tiếng Phạn, các nhà sư Trung Quốc để ý nghe các nhà sư Tây Tạng tụng chú rất nhiều lần, rồi ghi lại bằng chữ Hán. Âm đọc lên có lẽ cũng gần như các phát âm chính vì các nhà sư ấy sống ngay ở cạnh các nhà sư Tây Tạng. Người Việt Nam mình xem kinh in bằng chữ Hán, khi đọc chữ Hán thì theo cách phát âm Việt Nam, thí dụ chữ Hán phải đọc là Tài, Xỉu, Pê, Fô … thì người mình đọc là Đại, Tiểu, Bắc, Phật … Vậy thì làm sao mà linh nghiệm được? Ngày nay, chúng ta có thể tiếp xúc trực tiếp với các bản pali, sanskrit viết ra theo abc, và đã thấy có nhiều nhà sư Việt Nam thông thạo cách đọc chữ pali hay sanskrit nguyên gốc thì có lẽ nên đọc ngay theo pali hay sanskrit cho đúng với ý của chư Phật, chư Bồ-tát. Lại nữa, nên tìm các giảng nghĩa các câu thần chú đó thì Phật tử mới hiểu được”.
Trong Kinh Quán Âm Đại Bi Tâm Đà-La-Ni (2), HT Thiền Tâm đã giải thích như sau này: “ … Dù đọc tụng có trại với Phạm âm đôi chút cũng không sao, miễn có lòng chí thành là được công hiệu. Từ trước đến nay, khi ta đọc chú, thật ra đều trại với chánh âm, song vẫn cảm được oai thần, công đức không thể nghĩ bàn. Lại nữa, chú ngữ không phiên dịch vì có năm duyên cớ:
1/ Vì tâm niệm bí mật nên không phiên dịch. Nếu chúng sinh dùng tâm yên lặng, tin tưởng, thành kính mà niệm chú, tất sẽ khế hợp với chân tâm của Phật, Bồ-tát mà được cảm ứng. Nếu biết nghĩa lý thì dễ sinh tâm phân biệt … kết cuộc vẫn ở trong vòng vọng tưởng, làm sao thông cảm với Phật tâm.
2/ Vì nghĩa lý bí mật nên không phiên dịch. Trong một chữ chân ngôn, có nhiều nghĩa, khi dịch nếu lấy nghĩa này thì mất nghĩa kia, nên không được toàn vẹn. Thí dụ: riêng một chữ “A” đã hàm súc những ý nghĩa như bất sanh, bất diệt, không căn bản, chân thể và nhiều nghĩa khác nữa.
3/ Vì danh tự bí mật nên không phiên dịch. Những chữ trong chân ngôn, hoặc chỉ cho danh hiệu Phật, Bồ-tát, Thiên, Long, Quỷ, Thần, như chữ “Hồng” gồm bốn chữ Hạ, A, Ô, Ma hiệp thành, chỉ cho chủng tử của chư thiên. Hoặc có thứ ở phương này không có, như danh từ “diêm phù thọ” chẳng hạn.
4/ Vì âm thanh bí mật nên không phiên dịch. Các chữ chân ngôn có khi diễn tả âm thanh của tiếng gió reo, nước chảy, tiếng loài chim kêu, đọc lên có sức linh động, nên để nguyên âm thanh đó. Thí dụ “tô rô tô rô” là chỉ cho tiếng lá cây ở cõi Phật rơi xuống. Hoặc như chữ “Án” (Aum) đọc lên có năng lực thầm kín làm rung chuyển không gian. Hay như chữ “Ta-bà-ha” (Swaha) có sức truyền cảm như một sắc lệnh. Lại có nhiều danh từ đã để nguyên âm chữ Phạm sẵn dừ trước đến nay, vì thuận theo xưa nên không dịch ra.
5/ Vì sự sanh thiện bí mật nên không phiên dịch. Như danh từ “bát-nhã”, người đọc lên sinh lòng tin tưởng, phát ra niệm lành, nếu dịch là “trí huệ ” thì sinh ý khinh thường, không quý trọng.
Trên đây là những nguyên nhân vì sao chú ngữ không dịch ra chớ chẳng phải là không có ý nghĩa … , người học Phật chớ nên sanh lòng khinh mạn mà mang tội. (3)
Một nhà khoa học – ông Uông Trí Biểu – đã viết như sau: “Mọi người đối với Mật tông hay nhận lầm là có ý nghĩa thần bí, mang một màu sắc tôn giáo rất đậm đà … Lời Phật thuyết pháp rất rõ ràng minh bạch, nhưng giảng đến bản thể chân như thì chỉ trừ kẻ nào đã chứng thực rồi mới hiểu nổi, còn ngoài ra chẳng rõ, dù cho dùng lời nói văn tự cũng không thể trình bày ra nổi. Cho nên đức Phật sáng lập ra một thứ mật giáo không dùng lời nói để giảng thuyết, chỉ dạy người ta theo đúng phương pháp mà thực hành, kết quả là tự mình cũng có thể chứng được chân như.” (4)
Khi các học giả Tây phương nghiên cứu Phật học và nhiều người Tây phương xuất gia tu Phật thì họ tìm ý nghĩa các câu thần chú và có ghi lại những kết quả sưu tầm của họ. Nhưng chắc không thể làm cho hết được; hơn nữa các thần chú đã được dịch không chắc đã đầy đủ ý nghĩa vì có khi lấy được nghĩa này thì mất nghĩa kia như HT Thiền Tâm đã nói trên đây.
Có hai chữ mà chúng ta thường nghe khi tụng chú, đó là Án và Ta-bà-ha.
Chữ sanskrit AUM được phiên âm thành Án, có khi là Ám hay Úm. Đó là một âm linh thiêng của Bà-la-môn giáo, Ấn-Độ giáo và Mật tông Phật giáo. Chữ ấy có công dụng thay thế cho chư Phật, chư Thánh, chư Thần. Lại là cái biểu hiệu của Chân Như, Niết -bàn, Pháp Tánh, Hư không vô tận và cái Tuyệt Đối chẳng thể nghĩ bàn. Đó là tiếng tạo tác, sáng lập ra muôn vật, muôn cõi. Đó là gốc của mọi âm thanh trong vũ trụ.
Chữ sanskrit swaha được phiên âm thành ta-bà-ha, ngoài ra còn nhiều cách phiên âm khác như sa-bà-ha, sa-ha, tát-bà-ha, ta-ha … Gồm nhiều nghĩa như thành tựu, kiết tường, tiêu tai tăng phước, viên tịch, vô trụ, kính giác chư Phật chứng minh công đức. (5)
Trước khi kết thúc, chúng tôi xin ghi ra đây ý nghĩa vài câu thần chú thường thấy : Án ma ni bát mê hồng, theo truyền thuyết đây là câu thần chú do Bồ-tát Quán Thế Âm tặng cho dân Tây Tạng. Ma-ni là ngọc báu, Bát-mê là hoa sen. Hồng là ở trong. Hồng còn được cho là một âm linh thiêng, quỷ thần nghe thấy đến hỗ trợ. Toàn câu nghĩa là: ngọc báu trong hoa sen. Đây là hành giả mong mình vượt lên đạt được Phật quả, ngồi trên tòa sen, hoặc là mong được vãng sinh lên Cực lạc, trong hoa sen.
Câu chú Yết-đế, yết-đế, ba la yết-đế, ba la tăng yết-đế, bồ-đề, tát-bà-ha có nghĩa là Qua đi, qua đi, tất cả qua đến bờ bên kia, tất cả tích cực qua đến bờ bên kia, sự giác ngộ được viên thành. (6)
Kính chúc quý đạo hữu kiên trì tụng chú với tâm thanh tịnh, để sớm tìm được ma ni bát mê như lời nguyện. □
CHÚ THÍCH.
1/ Xin coi chi tiết về Mật tông trong bộ Phật Học Phổ Thông của HT Thích Thiện Hoa, quyển số 5, do Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản tại California, USA, 1981.
2/ Kinh này do Đà-Phạm-Đạt-Ma dịch ra chữ Hán và HT Thích Thiền Tâm dịch ra chữ Việt, do một nhóm Phật tử ấn tống tại Saigon năm 1964. Trang 59.
3/ Sau đó, HT Thiền Tâm viết thêm : Lại nữa, trong kinh có câu : « Nếu tụng trì đúng pháp, tự nhiên sẽ được hiệu quả và HT giảng cho biết thế nào là đúng pháp ». Đầu tiên là phải giữ giới. Và : Phải giữ thân thể sạch sẽ, xúc miệng trước khi tụng chú. Phải nghiêm trang, không hờn giận, tránh ham muốn dục lạc. Nếu lập đàn tụng niệm thì còn có nhiều điều khác phải thực hiện.
4/ Uông Trí Biểu, Lời báo cáo của một nhà khoa học, Nghiên Cứu Kinh Phật, Đồ Nam dịch từ chữ Hán ra tiếng Việt, Chùa Đức Viên ấn tống, San Jose, USA, 1985. Trang 50.
5/ theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn.
6/ Chúng tôi đã ghi ý nghĩa Chú Vãng sinh và Chú Dược Sư trong bài nói về đức Phật Dược Sư. □

Bài 16. Đức Phật Dược Sư

Tôi còn nhớ: cách đây gần hai chục năm, tôi lên chùa Pháp Hoa ở phía cầu Trương Minh Giảng để tham dự buổi cúng đàn Dược Sư do thày Tuệ Hải chủ lễ. Bấy giờ là lần đầu tiên tôi được biết thế nào là đàn Dược Sư và thế nào là đèn 49 ngọn. Và nhờ tụng kinh Dược Sư tôi mới biết rõ nội dung của kinh.
Ở đây, tôi muốn nhắc lại một kỷ niệm về thày Tuệ Hải. Khi đang tụng kinh thì chúng tôi bỗng thấy thày đứng dạy và lảo đảo. Mọi người hiểu là có chuyện chẳng lành xẩy đến với thày; một bác sĩ quen khẩn cấp tới ngay và cho biết huyết áp của thày lên quá cao, cần đem thày vào bệnh viện. Thế là thày được mang vào bệnh viện Saint Paul và vài ngày sau thì thày viên tịch. Đám tang của thày rất đông, đoàn người kéo dài từ chùa Pháp Hoa cho đến tận chùa Vĩnh Nghiêm. Mấy người cán bộ ngạc nhiên nhưng không hiểu nổi tại sao dân chúng không bị ai bắt buộc mà lại tham gia lễ tiễn đưa thày đông đảo và trật tự như vậy.
Tôi được biết thêm một chi tiết là năm 1963, vào thời pháp nạn, trong lúc đấu tranh, thày đã bị dùi cui đập mạnh vào gáy cho nên từ đó sức khỏe của thày không được tốt. Tuy nhiên thày không bao giờ nhắc đến chuyện đó, thày cũng như bao nhiêu tăng ni Phật tử đã âm thầm chịu đựng và hy sinh để bảo vệ chánh pháp. Chỉ tiếc cho những người sau này vì danh vì lợi đã quên lời nguyện của mình và vì thế đã làm hại cho đạo pháp rất nhiều!
Sau đây, xin trình bày vài hàng về đức Phật Dược Sư.
Khi chúng ta vào chính điện của các chùa tại quê nhà thì thấy nhiều tượng Phật bày thành nhiều hàng từ cao xuống thấp. Hàng cao nhất là ba vị Phật gọi là Phật Tam Thế hay Phật ba thời (quá khứ, hiện tại và vị lai) : ba pho tượng giống nhau. Cũng có khi là : Phật Ca-Diếp (hoặc Phật Nhiên Đăng), Phật Thích-Ca và Phật Di-Lặc. Có thể người ta thấy một hàng ba vị Phật khác, không gọi là Phật Tam Thế. Nếu được nghe chỉ dẫn thì chúng ta biết rằng vị ngồi chính giữa là đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni tức là vị Phật của cõi ta-bà, vị ngồi bên tay mặt của đức Bổn sư là đức Phật A-Di-Đà tức là vị Phật ở cõi Tịnh độ phương Tây và vị thứ ba ngồi ở bên tay trái của đức Bổn sư là đức Phật Dược Sư tức là vị Phật ở cõi Tịnh độ phương Đông, chuyên chữa mọi bệnh khổ về thể chất và tâm thần cho chúng sinh, đúng như tên gọi.
Chiêm ngưỡng các tượng, muốn biết tượng nào là tượng đức Dược Sư thì chúng ta nên để ý rằng : thường thường thì bàn tay mặt của ngài bắt ấn Varada, ấn này có ý nghĩa bố thí và từ bi; bàn tay trái của ngài đặt trên đùi, cầm một bình thuốc (hoặc cầm một trái cây có tính chất vị thuốc, hoặc cầm một cái tháp). Bình thuốc được sơn màu xanh đậm tức là màu của ngọc lưu ly, nét đặc biệt này làm cho chúng ta dễ nhận ra ngài nhất nhưng tiếc là nhiều tượng không có nét đặc biệt ấy.
Chúng ta đã nói rằng đức Dược Sư ngự tại phương Đông. Nếu tụng kinh Pháp Hoa thì chúng ta biết rằng có một vị tên gần giống, đó là đức Dược Vương. Và nếu tụng kinh A-Di-Đà thì chúng ta biết rằng còn nhiều đức Phật khác nữa ở phương Đông, thí dụ như các đức Phật A-Xúc-Bệ, Tu Di Tướng, Đại Tu Di, Tu Di Quang, Diệu Âm, vậy cần phải chú ý nhớ kỹ để khỏi lầm lẫn.
Kinh Dược Sư gọi cho đủ là DƯỢC SƯ NHƯ LAI BẢN NGUYỆN CÔNG ĐỨC KINH nghĩa là KINH NÓI VỀ CÔNG ĐỨC BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI. Tôn giả A-Nan nói lại lời Phật dạy, về sau lời ngài được ghi lại bằng chữ phạn. Vào đời Đường bên Trung Quốc, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra chữ Hán. Có nhiều bản dịch chữ Hán, tuy nhiên bản dịch của ngài Huyền Trang được coi là hay hơn cả. Kinh này đã được nhiều người dịch từ chữ Hán sang chữ Việt.
Về nội dung kinh, có hai phần chính : một là phần ghi lại 12 lời đại nguyện của đức Dược Sư khi ngài còn đang hành đạo bồ-tát; hai là phần ghi lại sự cứu giúp của ngài cho tất cả những ai đau khổ bệnh hoạn, về thân và về tâm.
Mười hai nguyện lớn của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai tóm tắt như sau:
1. Nguyện thân ta và mọi người đều có hào quang chiếu sáng.
2. Nguyện có uy đức thật cao để mở thông nhất thiết trí cho chúng sinh.
3. Nguyện cho chúng sinh được no đủ theo lòng mong muốn, không bị thiếu thốn.
4. Nguyện cho hết thảy chúng sinh vững vàng tu theo Đại thừa.
5. Nguyện cho hết thảy chúng sinh tu hành Phạm hạnh thanh tịnh, giữ đầy đủ Tam tụ giới (tức là ba nhóm giới cấm thu góp đầy đủ các giới của Đại thừa).
6. Nguyện cho hết thảy chúng sinh nếu thiếu các căn thì lại được đầy đủ.
7. Nguyện trừ mọi bệnh cho hết thảy chúng sinh, khiến cho thân tâm họ được yên vui, và sau chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề.
8. Nguyện chuyển nữ thành nam trong kiếp tới.
9. Nguyện cho các loài hữu tình được giải thoát khỏi hết mọi thứ trói buộc của thiên ma, ngoại đạo, các suy nghĩ sai lầm, rừng rậm ác kiến và dẫn dắt thu nhiếp họ về chính kiến.
10. Nguyện cho chúng sinh giải thoát khỏi các tai nạn bất thường, giặc cướp, hà hiếp của các ác vương.
11. Nguyện cho chúng sinh bị đói khát được ăn uống ngon lành và no đủ, rồi sau hưởng pháp vị để tạo dựng nên quả đức yên vui.
12. Nguyện hết thảy chúng sinh nghèo nàn thiếu thốn, không có quần áo, đều được các thứ quần áo tốt đẹp.
Những ai tin tưởng sâu xa vào đại nguyện của ngài, nhất tâm trì niệm danh hiệu của ngài thì sẽ thoát được bệnh tật và hoạn nạn. Ngay cả những nước bị nạn binh đao, nạn ngoại xâm, các thiên tai … nếu biết thành tâm cầu đến ngài thì sẽ thoát mọi ách nạn. Rồi những người yểu mệnh cũng có thể kéo dài mạng sống nếu biết lập đàn tiêu tai diên thọ.
Ngài đã ban cho Phật tử chúng ta một bài chú gọi là chú Dược Sư như sau:
Nam mô Bạc-già-phạt-đế, Namo bhavagate
Bệ-sái-xã-lũ-rô bệ-lưu-ly, Bhaisajyaguru-vaidurya
Bác lạt bà, hát ra xà dã , Prabha-rajaya
Đát-đa-yết đà-gia, Tathagataya
A ra hát đế , Arthate
Tam-miệu tam-bồ-đà-gia, Samyak-sambuddhaya
Đát điệt tha. Tadyatha
Úm, Bệ-xái-thệ, bệ -xái-thệ, bệ-xái-xã, Om, Bhaisajye-bhaisajye
Tam-một yết-đế; sa-ha. bhaisajya-samudgate; svaha.
Nghĩa là :
Quy y đức Thế Tôn, Dược Sư Lưu Ly Quang, Như Lai, Ứng cúng, Chính đẳng giác. Liền nói chú rằng : Úm, chữa cho, chữa cho, độ khắp tất cả. Viên thành.
Các Phật tử đi chùa đều đặn, chăm tụng kinh điển, lo trau dồi đạo hạnh, tin tưởng vững chắc vào Phật pháp thì không thấy vấn đề gì khi tụng kinh Dược Sư. Nhưng những người hay báng bổ thì nhạo rằng : không gian vô cùng vô tận, làm gì mà biết được phương Tây với phương Đông! Riêng các bạn trẻ thì thắc mắc tại sao trong kinh có một số điểm có vẻ mê tín dị đoan như đèn bẩy tầng và chỉ ngũ sắc, kéo dài mệnh cho người hoạnh tử.
Chúng ta có thể hiểu như thế này : Phương Đông là phương mặt trời mọc, phương Tây là phương mặt trời lặn (đối với chúng ta sống trên trái đất này như Phật Thích-Ca). Một cách tượng trưng, phương Đông gợi lên ý của sự bắt đầu, bắt đầu của sự sống, của cuộc đời. Phương Tây gợi lên ý của sự suy tàn, sự chấm dứt, sự chết. Đức Dược Sư ở phương Đông, ngài lo chữa bệnh cho người đang sống, ngài lo cứu người sống mà bị lầm than, đau khổ, hoạn nạn. Đọc lại 12 lời nguyện của ngài, chúng ta nhận ra ngay các điều ấy. Rõ ràng là ngài làm công việc tế sinh. Đức A Di Đà ở phương Tây, lo cứu độ người sắp chết và người chết, lo cho họ thoát khỏi cảnh sinh tử luân hồi bằng cách đón họ vãng sinh cõi Cực lạc của ngài. Rõ ràng là ngài làm công việc độ tử.
Còn việc trì niệm danh hiệu của đức Dược Sư thì cũng không khác gì trì niệm hồng danh của đức Phật A-Di-Đà hay Bồ tát Quán Thế Âm. Tất cả vấn đề là phải tin sâu, nguyện chắc và hành chuyên. Tha thiết và thành kính trì danh của ngài với tín tâm vững bền và lòng thanh tịnh thì cảm thông được với ngài vì: Phật, chúng sinh tính thường rỗng lặng; đạo cảm thông không thể nghĩ bàn. Chưa cảm thông được chính là vì thiếu các điều vừa kể trên. Một khi đã cảm thông được thì hành giả và Phật không khác nhau. Bấy giờ công đức của đức Dược Sư được hướng sang hành giả. Chữ hướng dùng ở đây chính là chữ hướng trong danh từ hồi hướng mà ta vẫn dùng hàng ngày. Nghiệp của hành giả mà nặng thì nhờ công đức của đức Dược Sư mà vơi đi, nhẹ đi hoặc mất đi.
Như vậy là dùng tự lực của chính mình để được cảm thông với chư Phật, chư bồ-tát rồi do tha lực của các ngài mà tìm được lối thoát ra khỏi đau khổ, hoạn nạn, và thoát ra cả cảnh luân hồi nữa. Cái tự lực ấy mạnh mẽ đến đâu thì tha lực đáp ứng mạnh mẽ đến đấy. Nếu dùng duy thức học mà giải thích thì chính cái sự cố gắng của mình đã tạo ra nghiệp lành để làm nhẹ hoặc là xóa hẳn cái ác nghiệp của mình vậy. Tất cả rút lại là mình có chịu tu tỉnh hay không, có cương quyết hay không, có vững tin hay không, có chăm chỉ tinh tiến hay không. Nếu không thanh tịnh hóa được ba nghiệp thì kết quả sẽ ít oi. Niệm Phật chính là phương pháp tu của thời buổi khó khăn hiện nay.
Còn những việc như lập đàn, thắp đèn bẩy tầng, treo phướn năm sắc, vv… thì chúng tôi không dám lạm bàn, bởi vì những điều này thuộc về Mật giáo, mà Mật giáo thì chúng tôi không được rõ. Có một nhận xét từ một triết gia, bảo rằng trải qua hàng trăm, hàng ngàn năm, kinh Phật có thể đã bị thêm hay bớt tùy theo mục đích của người chép kinh. Biết đâu rằng có người nào đó khi chép kinh đã đem những chi tiết cúng kiếng, bùa năm sắc, đèn bẩy tầng vào trong kinh.
Để kết luận, chúng tôi xin thưa rằng việc trì niệm hồng danh của đức Dược Sư cũng giống như việc trì niệm hồng danh của đức A-Di-Đà. Nhưng mục đích khác nhau : một đằng là để lo thoát khỏi đau khổ bệnh tật ngay trong đời hiện tại, một đằng là để lo vãng sinh Tịnh độ, thoát khỏi cảnh sinh tử luân hồi. Cả hai dùng để lo việc sinh tử cho con người, mà sinh tử là đệ nhất đại sự của con người. Nhìn lên đức Bổn Sư nét mặt bình thản, an lành, có lẽ chúng ta nên hiểu rằng ngài dạy rằng : sinh tử chẳng qua chỉ là từng giai đoạn của cả một chuỗi sinh tử, tử sinh, luân hồi không dứt; tất cả đều là không, cái chính là tu sao cho thoát khỏi sinh tử luân hồi, ấy mới thật là đại sự! □
PHỤ LỤC. Nhân đây, chúng tôi xin chép chú vãng sinh mà chúng ta thường đọc sau khi tụng kinh A-Di-Đà (gọi là Bạt nhất thiết nghiệp chướng đắc sinh Tịnh độ đà-la-ni, tức là Bài chú để diệt hết thảy mọi nghiệp chướng để được sinh lên Tịnh độ) :
Namo Amitabhaya, Na mô A di đa bà dạ,
Tathagataya, Đa tha dà đá dạ,
Tadhyatha, Đa địa dạ tha,
Amrtabhave, A di lị đô bà tì,
Amrtasambhave, A di lị đa tất đam bà tì,
Amrtavikrante, A di lị đa tì ca lan đế,
Amrtavikranta, A di lị đa tì ca lan đá,
Gamini, Gagana, Dà di nị, Dà dà na,
Kirtichare, Chỉ đa ca lệ,
Swaha. Sa bà ha.
Nghĩa là : Xin quy y đức Như Lai A-Di-Đà. Nguyện được như vầy. Rằng vô sinh đã thành tựu. Rằng vô sinh chắc chắn đã thành tựu. Rằng vô sinh đã thăng tiến. Rằng vô sinh đang thăng tiến, đang tiến lên phía trước, trên con đưỡng vinh quang thâm diệu. Cầu được như vậy! □

Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú

Bước Vào Cửa Phật-Quyển 2 – Montreal 2010

(Hình : Ngôi chùa Prambanan ở Java được nhìn dưới khía cạnh khác .- NN sưu tầm)

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics