1.Đèn cù-Trần Đĩnh:Trích đoạn (NN)-2.Lòng tham và,…đang hủy diệt Hội An(NV)3.Người Sài Gòn tập sống chung với lũ lụt(RFA)

ĐÈN CÙ – Trần Đĩnh

Giới thiệu “Đèn Cù” qua các Trích Đoạn –Nhã Nhạc

Kỳ I

Den cu 6

**Dưới đây là những trích đoạn trong tác phẩm Đèn Cù mà chúng tôi đã đọc và muốn chia xẻ cùng quí bạn đọc để, qua “Truyện tôi” này, quí bạn đọc hiểu nhiều hơn về bản chất các lãnh đạo CSVN và ý đồ “bán nước” của họ, dưới chiêu bài “chống Pháp, cứu nước” , ngay từ những ngày đầu tiên “toàn dân kháng chiến”. Chúng tôi dựa vào ý chính của “trích đoạn” để đặt tên cho “trich đoạn” .-

Trân trọng,

Nhã Nhạc

===============

Trích đoạn- Chương 1

Nhân cách lãnh đạo-Trường Chinh-

“Đầu 1949, Trường Chinh tuyển thư ký phụ trách văn hoá văn nghệ. Lê Đạt học ở trường luật được đưa về. Vừa tới trướng phủ, vừa nhất kiến Tổng bí thư, Đạt đã liền trái ý. Để thử sức thư ký mới, Trường Chinh đưa cho Lê Đạt quyển Le culte de l’ homme của Jacques Ducour, cộng sản Pháp:
– Ông này bàn về thờ phụng con người, anh đọc xong nói lại nhận xét của anh với tôi.
Hai hôm sau Đạt nói:
– Thưa anh, tôi thấy không nên dùng chữ thờ phụng con người.
– Vì sao?
– Tôi cũng chưa nói được rõ nhưng có lẽ nên nói tu dưỡng, vun xới, vun trồng gì đó.
Đang cần thờ phụng con người, Trường Chinh nạp ngay kẻ lần đầu ngỏ lời đã nói trái. Qua mười năm, có kim chỉ nam, ông đánh tơi tả kẻ muốn vun trồng con người, dám nói đến nhân văn.
Lâu về sau, một lần nhắc lại chuyện này, Đạt nói:
– Lúc mình chả có gì giúp nước mấy thì các ông ấy dùng. Lúc mình có nhiều cái để giúp thì các ông ấy nện.”

=====================

Nhân cách Hồ Chí Minh– Trích đoạn-Chương 3

….Tháng 10-1949, nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa ra đời. Hơn hai tháng sau Cụ Hồ bí mật len qua vùng địch ở Phục Hoà, Cao Bằng đi Trung Quốc qua Thủy Khẩu. Trần Đăng Ninh, Vũ Đình Huỳnh và Phạm Văn Khoa phiên dịch tiếng Trung Quốc theo cụ. Lý Ban vốn tỉnh ủy viên Quảng Đông đi tiền trạm.
Lúc ấy dưới trướng Lý Ban nắm Hoa kiều vụ có Tắc Vầy, Trương Đức Duy, cán sự vô danh nhưng sau này làm đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, lời lời vào tai Hà Nội đều nặng cân lạng vô cùng. Người đứng trên bè nứa bao giờ nom vẫn kém uy hơn người đứng trên tàu lớn.
Bác xuất ngoại, trong ATêKa chúng tôi rất mực vui. Đang vô thừa nhận mà lại sắp vớ được họ hàng toàn oách ra dáng hết. Đâu có biết đại thí sinh Hồ Chí Minh sắp dự cuộc khẩu thí mà nếu trúng tuyển thì đất nước sẽ đoạn tuyệt hẳn với thế giới.
Chừng một tháng sau, Cụ về. An toàn khu mừng mở tom-bô-la, xổ số. Tôi trúng một bàn chải răng. Dòng chữ Three Stars – Made in Shanghai (Làm tại Thượng Hải) óng ánh kim nhũ như soi thấu suốt lên nữa cái cán mầu san hô mà tôi cứ thấy như hành lang thu nhỏ dẫn vào một xứ sở thần tiên vậy.
Thép Mới rủ tôi gặp Phạm Văn Khoa moi chuyện. Khoa đã được dặn cấm không hé răng. Cuối cùng trong hàng thịt chó trên đường sang Bộ tổng tư lệnh, anh chỉ lộ ra một chuyện.
– Chúng mày xì ra thì chết tao… Ừ, tao làm phiên dịch nhưng nhiều lúc Ông Cụ cũng chẳng cần tao… Ông Cụ sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai. Họ không hiểu ta. Họp trong này, bên ngoài tao nhớ là có cái bể bơi nước nóng bốc khói, (lúc ấy ai biết Mao có cái thú giầm mình trong bể bơi). Tao nhìn mấy ông Mao, Lưu, Chu thấy trợn bỏ mẹ. Nhất là Mao trắng hồng, cao lớn, trán nhẵn bóng gần như im lặng suốt buổi, hai bàn tay khoanh lại đút vào hai ống tay áo bông. Ông Cụ nhà mình nói… Thỉnh thoảng Mao lại dặng hắng ừ hừ hữ một cái rất to, kinh bỏ con bà, chẳng hiểu là tán thành hay phản đối. Ông Cụ kiểm thảo xong, Lưu Thiếu Kỳ nhận xét, góp ý kiến. Thôi, đủ rồi, thôi…
– Thôi thế nào được, – hai chúng tôi cứ hai bên trái phải thi nhau huých đẩy Khoa – Chỉ khai một chuyện nữa thôi thì tha – chúng tôi nói.
– Nói rồi chúng mày lại cứ Khoa Tếu lộ cho chúng mày… Thôi, nói cái này thôi… Khi đoàn đến Bằng Tường, Tẫu bốc phắt luôn mỗi mình ông Bác lên xe đưa đi trước. Mất tướng, bọn tao đi sau lo quá…
– Làm cứ như thổ phỉ thế vậy ư? Không coi quân tướng người ta ra gì, không thèm đếm xỉa đến đám hộ tống bảo vệ Cụ, coi như muỗi mắt à? – chúng tôi cáu.
Gần năm sau thì biết Chu Đức, Liêu Thừa Chí, Nhiếp Vinh Trăn đã xuống tận Bằng Tường “bắt cóc” cụ Hồ đi… Nghe mấy cái tên huyền thoại, chẳng hạn Chu Đức, sướng quá.
Chúng tôi cứ dai nhăng nhẳng ép Khoa phải nói gặp Mao đã làm những gì. Khoa xì tiếp ra một bí mật nữa: sau khi Ông Cụ kiểm thảo, trình bày các cái ta chủ trương và làm, Lưu Thiếu Kỳ nhận xét…
– Sao lại kiểm thảo?
– Là một chi bộ của Quốc tế mà, không nhớ ư? Phải xin Quốc tế cho nhận xét chứ.
– Thôi được, nhận xét sao? – Thép Mới và tôi dồn.
Khoa nghiêm mặt, hơi sửng:
– Tao chỉ nói một cái nữa thôi, nếu không tao báo cáo xừ Lê Văn Lương là chúng mày bắt tao vi phạm kỷ luật bí mật của Bác.
Chúng tôi đành gật đầu. Khoa nói, Lưu Thiếu Kỳ nhận xét chính sách tiêu thổ kháng chiến toàn bàn của Việt Nam là không cần thiết và lãng phí. Vì những nơi có tính chiến lược thì dù là vùng hoang vắng, địch cũng xây cất để đồn trú còn nơi không có tính chiến lược thì nhà cửa nguyên vẹn địch cũng không ở…
Tôi hơi ức. Bác báo cáo coi như kiểm điểm, thôi được, nhưng sao không phải Mao nhận xét Bác mà lại Lưu? Rồi Trì Cửu Chiến của Mao viết ca ngợi tiêu thổ mà tại sao Lưu lại nhận xét ta như thế. Tôi bảo Thép Mới, Thép Mới ờ hờ một lúc nói:
– Họ cũng phải nói thế chứ chả lẽ cứ học họ là giỏi như họ rồi bình đẳng với họ được sao? Họ muốn vạch một démarcation, tuyến phân rõ thày với trò ra mà mày. Họ muốn nói là ta học họ nhưng tự học cho nên đã bị giáo điều. Muốn gì họ cũng phải nắm được đằng chuôi chứ. Mèo còn không dạy hổ leo cây cơ mà.
– Thày cái gì, chuôi cái gì? – tôi phản ứng.
– Không thì sao lại sang ngồi kiểm điểm với họ? Có kiểm điểm với dân, với tao, với mày không? Nhưng vẫn hơn xưa chứ mày. Quang Trung đánh bại nó mà phải xin nó phong cho An Nam Quốc Vương. Nay bình đẳng quá rồi chứ! Ta Dân Chủ Cộng Hoà, họ Cộng Hoà Nhân Dân, khác nhau đấy.
Khoa cho biết sau đó Mao đi Liên Xô ký kết hiệp ước với Liên Xô đồng thời nhân dịp nói trước với Stalin việc Hồ Chí Minh muốn được gặp.”

==============

Mưu mô thâm hiểm của bọn Mao –

Lòng hiếu thảo của một đảng viên trong bão tố CCRĐ–Trích đoạn- Chương 4

…”Lúc ấy tôi chưa biết Mao bày mẹo chỉnh huấn bắt khai tội cốt để hạ nhục bề dưới để dễ thu phục sai khiến – tao bắt mày khai cái thối tha nhất của mày ra mà mày nghe tao là mày hàng tao, tao nắm được ruột gan mày thì mày còn hòng thoát đi đâu.
Ở chi bộ chúng tôi, Nguyễn Tư Nghiêm là học viên duy nhất rơi vào cảnh gay go phải làm hai bước nhận nhục và có tội. Mẹ anh năm ấy đã già, có hơn hai mẫu ruộng cho cấy tô, một mình nuôi người em của Nghiêm bị điên. Nguyễn Tư Nghiêm nhất định không khai “tội ác” của mẹ. Chi bộ thuyết phục, răn đe, anh vẫn khăng khăng nói không thể căm thù mẹ, không thể coi mẹ là kẻ thù giai cấp, là có tội ác, không thể đoạn tuyệt mẹ mà trái lại anh biết ơn mẹ đã nuôi nấng anh thành người, cho anh được học mỹ thuật.
Tóm lại, đảng coi anh là ngọc là vàng để anh nghe đảng nhưng anh lại coi mẹ anh, kẻ thù giai cấp, hơn cả ngọc cả vàng. Và Nghiêm đã đơn thương độc mã nhỏ nhẹ, ấp úng chặn đứng một mầm văn hóa ác bắt đầu ló mòi mà người ta toan vun trồng nhân giống trên đất nước.”

………………………………

Cải cách ruộng đất-Đấu tố -Tích đoạn – Chương 5

…”Cải cách ruộng đất chính thức nổ pháo hiệu đầu tiên ở xã Dân Chủ, Đồng Bẩm, Thái Nguyên, trên quốc lộ 1 lên Lạng Sơn. Đối tượng: Nguyễn Thị Năm, tức Cát Hanh Long, nhân sĩ tên tuổi trong Trung ương Hội Liên Hiệp Phụ Nữ cũng như Trung ương Mặt trận Liên Việt, người thường cùng họp long trọng với Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Hoàng Quốc Việt. Nay bà trở thành địa chủ phản động, cường hào gian ác lợi dụng tiếng thân sĩ để phá hoại cách mạng và kháng chiến, có nhiều nợ máu với bần cố nông. Quản lý đồn điền Nguyễn Lân, nguyên vô địch võ sĩ quyền Anh trước kia nổi tiếng khắp Đông Dương cũng là đối tượng đấu tố và xử bắn. Đặc biệt Công, con trai bà Nguyễn Thị Năm, Việt Minh bí mật, nay là chính ủy trung đoàn pháo 105 li đang học ở Côn Minh, Trung Quốc cũng bị gọi về, treo giò.

Để có phát pháo mở đầu cuộc cải cách ruộng đất, Trường Chinh chỉ thị báo Nhân Dân tường thuật vụ đấu Nguyễn Thị Năm – Cát Hanh Long. Tôi nhận nhiệm vụ. Trường Chinh nói phân công tôi vì cần một bài báo viết nổi bật lên khung cảnh sôi sục, sinh động của cuộc đấu tố để ca ngợi sức mạnh của bần cố nông được phát động, còn tội ác thì tôi cứ theo tài liệu, cáo trạng của đội. Tôi nói tôi không dự đấu tố thì anh bảo tôi khai thác Văn, người cấp dưỡng theo anh tới tận Đồng Bẩm và đã chứng kiến các buổi đấu tố. Sở dĩ báo chí không dự đấu là vì giữ bí mật, ngại Đồng Bẩm cách Hà Nội có vài chục cây số đường chim bay, Pháp có thể nhảy dù xuống đó. Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt.
Thế là tôi viết bài khai hỏa cải cách ruộng đất theo sự pha phách thêm nếm khó lòng tránh khỏi của người cấp dưỡng đáng yêu của tổng bí thư.”

…..

…”Có lẽ để phối hợp với bài báo của tôi, CB (Bác Hồ) gửi đến bài “Địa chủ ác ghê”.
“Thánh hiền dạy rằng: “Vi phú bất nhân”.
Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khóa – thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:
Mụ địa chủ Cát – Hanh – Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã kể các tội cụ thể và con số cụ thể”.
(Trong hồi ký nói về mười nỗi buồn của Bác Hồ, viết Bác không tán thành đấu Nguyễn Thị Năm nhưng phải nghe cố vấn Trung Quốc, Hoàng Tùng vô tình hay cố tình quên bài báo Bác gây căm thù cao độ này. Đâm ra lại đổ cho Bác cái lỗi không kiên định – nghe cả điều sai vốn trái với ý mình)
Dăm bữa sau bài “phóng sự nghe kể lại,” tôi xuống Đồng Bẩm. Tình cờ Tiêu Lang, báo Cứu Quốc, trong đội cải cách về đây còn ở lại lo hậu sự. Tôi hỏi chuyện bắn, anh lè lưỡi lắc đầu mãi rồi mới kể lại.
“Sợ lắm, tội lắm, đừng có nói với ai, chết tớ. Khi du kích đến đưa bà ta đi, bà ta đã cảm thấy có gì nên cứ lạy van “các anh làm gì thì bảo em trước để em còn tụng kinh”. Du kich quát: “Đưa đi chỗ giam khác thôi, im!”. Bà ta vừa quay người thì mấy loạt tiểu liên nổ ngay sát lưng. Mình được đội phân công ra Chùa Hang mua áo quan, chỉ thị chỉ mua áo tồi nhất. Và không được lộ là mua chôn địa chủ. Sợ như thế sẽ đề cao uy thế uy lực địa chủ mà. Khổ tớ, đi mua cứ bị nhà hàng thắc mắc chưa thấy ai đi mua áo cho người nhà mà cứ đòi cái rẻ tiền nhất. Mua áo quan được thì không cho bà ta vào lọt. Du kích mấy người bèn đặt bà ta nằm trên miệng cỗ áo rồi nhảy lên vừa giẫm vừa hô: “Chết còn ngoan cố này, ngoan cố nổi với các ông nông dân không này?”. Nghe xương kêu răng rắc mà tớ không dám chạy, sợ bị quy là thương địa chủ. Cuối cùng bà ta cũng vào lọt, nằm vẹo vọ như con rối gẫy vậy…”
Rồi tôi được nghe truyền đạt rằng các nước anh em ở Đông Âu, không phải Bác Hồ, tỏ ý không tán thành cải cách ruộng đất mà còn bắn đầu tiên một phụ nữ.
Chính ủy Công (được vinh dự CB nhắc đến trong bài báo trên kia) bị điệu từ Vân Nam về và ngồi cùng mẹ chịu đấu tố nhưng nghe nói không được dự buổi chôn cất mẹ. Nhưng đầu những năm 90, anh đã cải táng được cho mẹ rồi sau đó anh chết, lúc chỉ còn là một người bạc nhược, sợ sệt, lú lẫn.”

…………………………………………………………

Làm tay sai/Nô lệ Tàu cộng– Trích đoạn-Chương 6

.”……Lúc ấy chúng tôi mới chỉ pha trò cười thứ chế độ lố bịch này chứ chưa biết qua phát động cải cách ruộng đất ở Việt Nam (Hoàng Tùng hồi ký rằng Mao đã “gọi” Hồ Chủ tịch sang bảo phải làm cải cách ruộng đất), Trung Quốc đã rắp đưa Đảng cộng sản Việt Nam vào quỹ đạo của Trung Cộng như bóng với hình. Chẳng hạn chế độ phân biệt đối xử chi li đến gần như tàn nhẫn về hưởng thụ vật chất nói trên. Hay quan trọng hơn nữa, những thay đổi nhân sự dựa trên giai cấp xuất thân. Chẳng thế mà ở Điện Biên Phủ, Giáp dặn khẽ Lê Trọng Nghĩa, Hoàng Đạo Thúy… cần nói năng cẩn thận về lý lịch, các cố vấn đang xem xét, kể cả tôi (Võ Nguyên Giáp). Đánh mọi kẻ thù, Giáp chỉ thua kẻ thù giai cấp đang được cố vấn Trung Quốc trình làng mà nguy nhất là nó có thể nằm ngay ở trong người Giáp.
Tháng 2-1954 nổ súng ở Điện Biên thì tháng 11-1953, Hoàng Văn Thái xuống làm phó tổng tham mưu trưởng, Văn Tiến Dũng lên thay. Dũng thợ may gần công nhân hơn Thái. Hay sau này Đỗ Mười thợ sơn, thợ hoạn lợn thì ưu tú hơn đứa được học cao…
Rồi sau này đi đến phương châm nhân sự kinh hoàng của Song Hào, Phạm Ngọc Mậu: đề bạt bần cố nông một năm một cấp là chậm, đề bạt tiểu tư sản mười năm một cấp là nhanh.
Tất nhiên lúc ấy càng không biết đảng thay đổi nhân sự theo sự chỉ trỏ khôn khéo của cố vấn Trung Cộng cũng có nghĩa là đảng phủ nhận những thành tích đảng đã thu được trong quá khứ. Đúng thế, không thì thay người làm gì cho rách chuyện…? Chỗ thâm hiểm ở đó. Quá khứ của anh chưa có tôi “phụ trách” nên không ra sao, nay có tôi, anh phải thay đổi theo ý tôi. Thực chất đó là gì? Là diễn biến hung bạo, không hòa bình, của nước ngoài nắm vững Mác-Lê hơn Việt Cộng.”…

……………………………………………….

Từ bỏ Đảng ? Đảng khai trừ ? – Trích đoạn-Chương 8

…”Người quen ở rừng gặp lại đầu tiên là Nguyễn Huy Tưởng.
Đầu bờ hồ, trước nhà Tây Cóc Descours và Cabaud cũ. Mũ phớt. Mặt cụp xuống rầu rĩ, Tưởng bắt tay tôi, nói mỗi câu: “Buồn!”
Trong hội trường Nhà hát lớn, một tiếng gọi rất vuỉ ở sau lưng:
– Đĩnh!
A, Nguyễn Tư Nghiêm, tôi đang rất mong anh. Nghiêm ngồi một mình trong một “chuồng gà” tôi tối bên trái, gần cửa ra vào chỗ ngang hông nhà hát. Vẫn cái cảm gíác âm ẩm trên mặt các pho tượng đất miếu hoang. Tôi vừa vào ngồi xuống, Nghiêm đã nói ngay:
– Mình ra đảng rồi.
– Ố! – tôi kêu lên.
– Phong trào cộng sản tan rồi.
Con mắt nhỏ đăm đăm hiền lành, Nghiêm nói, nhỏ nhẹ, từ tốn, như ngày nào anh cự tuyệt căm thù mẹ ở trước chi bộ. Miệng khe khẽ cười như có vẻ chóp chép nhấm nháp một điều gì thú vị.
Tôi buồn lắm nhưng không hỏi, không nói. Tôi đã có kinh nghiệm. Mới ngày nào chi bộ ép anh làm bậy, anh không theo và cuối cùng thì đảng đã phải sửa sai. Có điều chẳng chịu xin lỗi hành động đã xui anh giẫm đạp lên mẹ.
Tôi bỗng nghĩ tới con người thường khuyên Nghiêm làm cái này cái nọ. Những lúc được khuyên can như thế, anh nhăn nhó, giơ ngón tay ngắn lên dũi dũi chọc chọc vào thái dương nói:
– Nó bão thế, nó ỡ đây…
Chỉ lần không căm thù mẹ là con người thứ hai ấy không ra mắt. Chắc lần ra đảng cũng thế.
Năm 1970, một tối ăn uống ở nhà Văn Khuyến, gần Chùa Tàu Ngô Sĩ Liên có Nguyễn Tư Nghiêm, Văn Cao, tôi và đứa con gái tôi lên bốn. Bốn người nằm thành bốn con trạch quây con gái tôi và mâm rượu vào giữa. Nghiêm cười bảo tôi:
– Đĩnh à, chế độ này là capitalisme d ‘Etat – chủ nghĩa tư bản Nhà nước, một số người thao túng lũng đoạn toàn bộ tài sản đất nước, cộng sản trá hình thôi, đừng tin họ.
Cùng lúc Văn Cao rầu rĩ bảo tôi:
– Trần Đĩnh à, tao thương mày, lẽ ra tuổi mày thì đâu đã bạc tóc.
Nghiêm lại giật lấy tay tôi:
– Chủ nghĩa tư bản quốc gia, của thiểu số mượn danh công hữu mà chiếm hữu quyền lực…
Nghiêm khe khẽ bóp tay tôi. Bàn tay anh đặc biệt mềm, mát, con mắt lại như cười, như chóp chép nhấm nháp một cái gì hết sức thú vị. Tôi chợt nhận ra hôm ngồi trong chuồng gà Nhà hát lớn anh đã có ý xâu chuỗi tôi khi nói: “Mình ra đảng rồi… Phong trào cộng sản đã tan rã…” Anh muốn tôi đồng hành.
Nhưng tôi không theo anh, tuy mến anh.
Ở đại hội văn nghệ, tôi mong gặp một người nữa là Lê Đạt.
Thì bỗng một hôm Đạt đến sau lưng, đập vai.
Vẫn cái cười hềnh hệch. À, họp chửi nhau không văn hoá lắm nên chẳng muốn đến.
– Nghe nói gần Tết vừa rồi cậu bị Tố Hữu triệu đến nhà ông ấy viết kiểm thảo? – tôi hỏi.
– Viết xong rồi, khai trừ đảng rồi…
– Nghe nói cậu ăn no ngủ kỹ chẳng hối hận gì cả?
– Thuý vợ tớ cứ nói ông làm ơn trằn trọc đi lấy một tí cho người ta đỡ phê phán là coi thường người ta có ý xây dựng có được không? Lên trên này mày.
Chúng tôi lên Nhà Gương vắng tanh. Tôi nói:
– Cho tớ hỏi câu nữa: “Báo chí nói các cậu phục vụ tư sản, quân sư cho tư sản và ăn uống như tư sản?”
Lê Đạt khuỵu một đầu gối xuống, khuỳnh hai chân sang hai bên, hai tay thục sâu vào túi quần khẽ kéo nó lên mời tôi kiểm kê những cái tư sản đắp điếm lên người anh. Tôi liền đỏ mặt. Trong khi tôi com-lê may bằng tít – xuy Ăng lê ở cửa hiệu sang đường Vương Phủ Tĩnh (đại sứ quán cho tiền) thì áo bông Lê Đạt tòi mền đã bợt ra, và chân không bít tất xỏ dép râu.
– Nào, nghe thơ thôi nhá? – Đạt đứng đọc liền mấy bài thơ mới làm.
Rồi lấy giấy bút viết bài “Ghế đá” với dòng chữ “Tặng Trần Đĩnh và…”
Tôi mang sang Bắc Kinh. Cho anh em xem tờ truyền đơn của phản động. Sửa cái lỗi đã ngờ Đạt sống như tư sản.”

………………………………………………………..

Âm mưu thôn tính miền Nam VNCH qua phá hoại Hiệp định Geneve – Trích đoạn-Chương 9

…”Một chuyện xảy ra với tôi trong lúc báo chữ to đang rầm rộ. Câu chuyện tôi giấu mãi.
Bữa ấy tôi đang đọc báo chữ to gần Da Xan Ting – Đại thiện đình (Nhà ăn lớn). Một sinh viên Trung Quốc đến bên tôi. Trắng, đẹp, kính trắng, mắt hiền.
– Xin lỗi, anh là lưu học sinh Việt Nam?
– Vâng, còn anh ala Thượng Hải? (ala tiếng Thượng Hải là chúng ta, chúng tôi).
– Tôi là… (anh nói tên nhưng tôi không nhớ), muốn nói chuyện một ít với anh, có được không?
Anh nhờ tôi chuyển cho sứ quán Việt Nam một thư đề nghị Bắc Việt Nam hãy tôn trọng hiệp định Genève, đình chỉ đưa quân và vũ khí vào trong Nam cũng như rút lực lượng đã phi pháp cài lại từ 1954.
– Làm gì có chuyện ấy nhỉ?
Hoàn toàn bị xúc phạm, tôi vừa ngớ ra ngạc nhiên vừa khó chịu. Anh đốt đảng anh thôi chứ lại định đốt cả đảng tôi nữa ư?
– Có, đài nước ngoài thường xuyên lên án, tố cáo Bắc Việt Nam.
– Sao anh tin những thứ ấy?
– Đọc các đại tự báo đây anh có tin không?
Tôi quay đi và nói:
– Tôi không chuyển thư anh được vì bận và vì ý kiến của anh thiếu cơ sở.
Nhưng từ hôm ấy, tôi bỗng cứ lởn vởn nghĩ ta có vi phạm hiệp định Genève thật không? Chả lẽ ta chính nghĩa lại bội ước? Chả lẽ bản chất ta hoà bình lại thích chiến tranh?
Lúc ấy thật tình tôi không biết đảng có phương án kế hoạch cài cán bộ và quân lính ở lại miền Nam cũng như tiến hành nghiên cứu ngay từ đầu hình thế bờ biển để sau này lập “đội thuyền không số” có cơ sở ở huyện Thuỷ Nguyên. v.v…
Lúc ấy đâu đã đến ngày, thí dụ 24 tháng 5 năm 1962 để tôi họp trưởng phó ban của báo Nhân Dân mà ghi vào sổ tay sự việc dưới đây: Chính phủ Diệm gửi công hàm đi 72 nước đề nghị lên tiếng phản đối Việt Cộng ngày một mở rộng hoạt động lật đổ (lúc đó Cà Mau đã thành vùng giải phóng) thì Anh quốc và Sihanouk hưởng ứng sớm nhất. Anh quốc quy trách nhiệm cho Hà Nội vi phạm hiệp định Genève, Sihanouk thì yêu cầu mở hội nghị quốc tế giải quyết vấn đề miền Nam để đất nước ông được yên. Nhưng Liên Xô, uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và nước ký vào hiệp định Genève, lại đổ hết trách nhiệm cho Ngô Đình Diệm, quyết giữ hình thái hai bên Quốc-Cộng “trùm chăn đánh nhau” chết thôi bên trong lãnh thổ miền Nam theo đúng ý đồ miền Bắc. Canada và Ấn Độ trong Uỷ ban Kiểm soát Quốc tế đã ra nghị quyết riêng lên án Hà Nội vi phạm hiệp định Genève.
Thế là báo Nhân Dân nổ xã luận đả kích dữ dội họ. Phản ứng lại, Canada doạ rút khỏi Uỷ ban vì ta bảo họ “đứng đằng sau Mỹ” vu cáo miền Bắc. Ấn Độ thì bị xã luận bôi cho một câu lăng mạ: “không xứng đáng là Chủ tịch Uỷ ban quốc tế…”. Sau đó, hưởng ứng xã luận, dân nhiều nơi mít tinh đả đảo Canada, Ấn Độ.
Lê Duẩn phải dặn dò nên chú ý lời lẽ đả kích Anh và Ấn Độ. Cung bậc theo ông đại khái là chính phủ thì ôn hoà, báo đảng có thể cao giọng đôi chút còn ngoài ra, các báo khác tha hồ được nặng lời với hai uỷ viên quốc tế “bênh Mỹ – Diệm”. Liều lượng phân bổ đòn ngôn luận này đã vào cẩm nang.
Nhân nhắc đến Lê Duẩn thời gian này, xin kể tiếp một việc cũng vào sổ tay tôi lúc ấy. Ban văn hoá của báo cho biết anh Lê Duẩn quan tâm đến đời sống dân lắm. Anh đã hỏi kỹ anh Phạm Ngọc Thạch rằng một bát cơm ăn với rau muống luộc có khác một bát cơm ăn với rau muống xào không. Khi nhờ phân tích khoa học cao siêu, (tôi ngứa tay thêm mấy chữ này vào đây) biết là có khác nhau… “cơ bản” thì anh Duẩn đã chỉ thị hãy cố sao cho “về cơ bản” dân ta được ăn nhiều rau muống xào mà “cơ bản” bớt luộc đi. Nói “về cơ bản” vì phấn đấu cho có thêm mấy triệu thìa mỡ mỗi ngày “về cơ bản” không dễ!… Tôi nghĩ ngay việc gì phải Phạm Ngọc Thạch nghiên cứu, cứ bày lên bàn ông Duẩn hai dúm cơm, một rang mỡ, một không là kiến nó cho ý kiến nó ngay không phải chờ Phạm Ngọc Thạch chỉ thị cho ngành y tế.
Nhưng xin trở lại chuyện diễn ra ở Bắc Kinh.
***
Tuần sau tình cờ tôi gặp anh “Thượng Hải” ở gần Đại lễ đường. Anh đi với một cô gái trăm phần trăm Shang hai gu niang, Thượng Hải cô nương. Cô gái nhìn tôi như có ý hỏi anh bạn đi bên: “Cha từ chối đưa thư đấy phải không?”
Không nghe thấy nhưng tôi cáu – đinh ninh cô gái nói nei jia huo, thằng cha kia. Cùng lúc thấy cô gái rất đẹp. Picasso có lẽ lấy mẫu kiểu tóc đuôi ngựa ở cô gái thanh tú này.
Chẳng hiểu sao tôi rẽ ngoắt luôn. Tức. Không, có cả ghen vớ ghen vẩn.
Khi chống phái hữu, nhiều giáo sư, sinh viên bị đưa đi, tôi có ý tìm anh “Thượng Hải”. Không thấy nữa. Nghĩ cô gái Thượng Hải nếu không xuống nông thôn lao động cải tạo – để bị người ta cưỡng hiếp, chửa hoang và treo cổ chết – thì chắc phải bỏ học và bỏ cái đuôi ngựa “văn hoá đồi truỵ phương Tây”, tôi bỗng bồn chồn cùng ân hận lạ lùng.
Tôi chưa hiểu với tôi những ông thày sống động đầu tiên chỉ ra con đường và cách thức đấu tranh cho dân chủ chính là làn sóng “phái hữu” trong đó có anh sinh viên cùng cô bạn gái xinh đẹp của anh. Sau này trong gian nan phải chịu đựng tôi mới nhận ra hình ảnh của họ càng đậm nét trong tôi. Nhưng tại sao anh sinh viên đeo kính trắng lại chọn tôi để nhờ chuyển thư phản đối ta “phạm pháp” đưa súng ống, binh lính vào Nam? Anh đọc thấy gì ở trên mặt tôi. Một hừng sáng nào đó ư? Một kiểu Nàng Kiều với Đạm Tiên ngày Thanh Minh.
Tôi còn một bạn học, người Nam Kinh. Lúc “phái hữu” lên tiếng, anh từng bảo tôi:
– Chắc cậu cũng biết truyện “cô gái quàng khăn đỏ?” Chúng ta đấy. Cũng quàng khăn đỏ cả mà. Hỏi bà ơi, tại sao tai bà to thế? Bà nói: Để bà nghe thấu bọn phản động chúng nó thì thào. Thế sao mắt bà sáng thế? À, sáng mới thấy được chỗ chúng nó ẩn nấp. Còn răng? Sao răng bà to thế? Răng bà to để ăn thịt những đứa khoẻ thắc mắc về bà… như cháu. Ăn luôn.
Tôi hỏi anh:
– Người Trung Quốc nghĩ như cậu có nhiều không?
– Zen ma shuo ya? Nói sao nhỉ? Một nửa đi. Nhưng nửa kia có loa ở mồm và có súng trên tay.”

(Còn tiếp)

………………………………………………………………………………………

Lòng tham và sự thiếu hiểu biết đang hủy diệt Hội An
Nguồn:nguoiviet.com-Friday, October 10, 2014

HỘI AN (NV) – Tình trạng sạt lở ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam càng ngày càng nghiêm trọng. Một phó chủ tịch của thành phố này thú nhận đó là hậu quả của lòng tham và thiếu hiểu biết.

Trong vài ngày qua, mỗi ngày, biển lại ngoạm sâu vào bờ đến vài mét, khiến dải đất từ Cửa Ðại của Hội An đến sát huyện Ðiện Bàn của tỉnh Quảng Nam bị biến dạng.

Hoi An 2

Khu resort Fusion Alya ở Hội An đang từ từ bị kéo xuống biển. (Hình: Một Thế Giới)

Ông Nguyễn Văn Dũng, phó chủ tịch thành phố Hội An, thừa nhận, tình trạng xói lở ở Hội An càng ngày càng nghiêm trọng. Riêng khu vực bãi tắm sát Cửa Ðại, trong bảy năm qua, biển đã lấn vào bờ 150 mét. Sóng biển hiện vẫn đang cuồn cuộn đánh vào bờ biển Hội An.

Tại khu vực Cửa Ðại, bất kể chủ đầu tư đã dùng đủ cách, hai khu resort có tên là Fusion Alya và Vinpearl Hội An vẫn đang từ từ sụp xuống biển. Khu resort mang tên Fusion Alya có 50 biệt thự, mỗi biệt thự có giá khoảng 2.5 tỉ đồng. Chủ đầu tư đã bỏ ra vài trăm tỉ để xây dựng khu resort này nhưng vì sự xâm thực diễn ra càng ngày càng dữ dội nên dự án xây dựng phải bỏ dở.

Theo ông Dũng, thực trạng vừa kể là hậu quả của việc chống lại thiên nhiên. Khi thi công các khách sạn, khu resort dọc bờ biển, chủ đầu tư của những công trình này đã phá sạch các cánh rừng chắn sóng.

Nay, muốn ngăn chặn tình trạng xói lở bờ biển ở Hội An phải xây dựng hệ thống kè biển dài khoảng 7 cây số nhưng nhà cầm quyền không có tiền. Xói lở đang làm nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch ngại đầu tư vào Hội An. Lượng du khách cũng đang bắt đầu giảm.

Chẳng riêng Hội An, tham lam và thiếu hiểu biết trong khai thác bờ biển, cát sông, rừng đã và đang hủy diệt nhiều khu dân cư ở Việt Nam. Hồi tháng 8 vừa qua, sau sự kiện 7 căn nhà nằm trên bờ kênh Nàng Mau, thuộc xã Tân Long, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, đổ ụp xuống sông, báo chí Việt Nam đồng loạt cảnh báo về hiện tượng sạt lở đang lan rộng khắp đồng bằng sông Cửu Long.

Lúc đó, viên chủ tịch xã Tân Long cho biết, hiện tượng vừa kể chưa từng xảy ra ở khu vực kênh Nàng Mau và theo viên chủ tịch này, nguyên nhân sạt lở là do tàu và sà lan chở cát thường xuyên qua lại, gây ra sóng mạnh đánh vào bờ.

Hậu Giang hiện có hơn 100 điểm có thể sạt lở bất kỳ lúc nào. Tình trạng tương tự cũng đang diễn ra trên nhiều đoạn sông Tiền, đặc biệt là đoạn chạy ngang phường 11, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Ðồng Tháp, hồi tháng 8, đoạn này sạt một khúc dài hơn 100 mét, ăn sâu vào đất liền khoảng 25 mét. Do khu vực sạt lở nằm sát một tổng kho xăng dầu nên các bồn chứa xăng, dầu đang có nguy cơ đổ ụp xuống sông.

Tại tỉnh Tiền Giang, hiện có 150 điểm sạt lở dọc bờ sông, kênh rạch, đê bao ở các huyện: Cái Bè, Tân Phước, Cai Lậy, Châu Thành.

Các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau cũng có vài trăm điểm đang trong tình trạng có thể sạt lở bất kỳ lúc nào. Hàng ngàn tỉ đồng đã được chi để chống sạt lở ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nhưng không hiệu quả.

Cũng trong tháng 8, chế độ Hà Nội loan báo, tình trạng lũ, lũ quét và sạt lở ở Việt Nam đang tăng theo thời gian. Từ năm 2000 đến nay, có 250 đợt lũ quét và sạt lở, khiến 646 người chết và mất tích, 351 người bị thương.

Ngoài thiệt hại nhân mạng, lũ, lũ quét và sạt lở còn phá hủy 10,000 căn nhà, gây ngập và làm hư hại khoảng 100,000 căn nhà khác, vùi lấp hàng trăm héc ta đất canh tác, chưa kể những thiệt hại đối với các công trình giao thông, công trình thủy lợi, công trình dân sinh.

Tổng thiệt hại do lũ, lũ quét và sạt lở gây ra trong 14 năm vừa qua được ước đoán khoảng 3,300 tỷ đồng. Theo nhà cầm quyền Hà Nội thì Tây Bắc, Tây Nguyên và miền Trung là những khu vực thường xảy ra lũ, lũ quét, sạt lở. Nguyên nhân khiến lũ, lũ quét và sạt lở gia tăng là vì khai thác rừng bừa bãi trong một thời gian dài.

Chỉ trong đợt bão lũ xảy ra hồi tháng 7 vừa qua, lũ, lũ quét và sạt lở đất ở khu vực Tây Bắc của Việt Nam đã làm 24 người chết và mất tích.

Do lũ, lũ quét và sạt lở gia tăng, từ năm 2006 đến năm 2013, nhà cầm quyền các địa phương đã phải di tản khoảng 172,000 gia đình ra khỏi các khu vực có thể xảy ra lũ quét và sạt lở. Tuy nhiên, theo kết quả một cuộc khảo sát thực hiện gần đây, vẫn còn khoảng 10,000 điểm dân cư có nguy cơ bị lũ quét, hay bị sạt lở, trong đó có 2,100 điểm dân cư được xem là có nguy cơ cao và rất cao.

Giới hữu trách tại Việt Nam cho biết, trong vài năm qua lũ, lũ quét và sạt lở là loại thiên tai gây thiệt hại lớn nhất, đặc biệt là thiệt hại nhân mạng. (G.Ð.)

………………………………

Người Sài Gòn tập sống chung với lũ lụt
Nguồn:RFA-Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam-2014-10-15

mua lut

Sài Gòn mừa mưa – RFA

Lũ, đó là khái niệm có thể nói rằng rất xa lạ với người Sài Gòn, thế nhưng thời gian gần đây, người Sài Gòn bắt đầu tập sống chung với lũ, khác với việc sống chung với nước ngập như trước đây. Sở dĩ nói rằng người Sài Gòn đang tập sống chung với lũ bởi vì tình trạng ngập nước hiện nay ở thành phố Sài Gòn không còn là tình trạng ngập úng như trước đây mà tốc độ dâng nước của các con sông Sài Gòn tràn vào thành phố còn nhanh hơn cả lũ lụt miền Trung.

Cứu trợ Sài Gòn!?

Một cư dân Sài Gòn tên Miên, ở quận Tư, Sài Gòn, chia sẻ: “Đặc trưng của Sài Gòn là thành phố kênh rạch, xây dựng theo thủy văn tự nhiên. Nhưng giờ mình lấp kênh, rạch bừa bãi rồi nên dễ ngập úng, rất khó để cải tạo. Họ sang lấp để mở rộng diện tích theo sự phát triển của đô thị nhưng không phát triển kèm cơ sở hạ tầng đúng. Cái tên Sài Gòn – Hòn ngọc viễn đông giờ nghe cũ rồi, hài hướt rồi. Cũng nằm trong lý do dốt nát về địa chất, tham nhũng thôi. Thì những địa phương đồng bằng đông dân cư thì tình trạng ngập càng ngày nặng. Nhiều khi ngập cả phường, cả con đường, rất nhiều hệ lụy. Thứ nhất là vệ sinh phòng bệnh cực kỳ nguy hiểm, lưu thông dẫn đến tai nạn giao thông, thứ ba nữa là tài sản gia đình, như bàn ghế tủ hư hết. Liều mà sống chứ quá khổ, quá khổ. Thành phố mà lội giữa sình, đúng là bi kịch.”

Theo ông Miên, nếu như những năm trước 1975, người Sài Gòn đôi khi còn lãng mạn nghĩ rằng bằng cách này hay cách khác để về thăm quê miền Trung trong dịp lũ lụt, để được ăn bánh xèo đầu mùa, được bơi ghe đi bắt dế, bắt cá… Thì hiện tại, những chuyện đó không cần phải đi đâu xa, ngay tại Sài Gòn vẫn có thể lội bì bõm nước lụt và cũng có bánh xèo, có cá, chuột, đặc biệt bắt chuột cống ở Sài Gòn thì con nào con nấy nặng cả ký. Nhìn chung, đời sống ở thành phố Sài Gòn mùa mưa bây giờ tiến xa về mức độ chịu đựng ngập lụt so với những vùng miền khác.

Để khẳng định cái điều mà ông Miên cho là mức độ chịu đựng tiến xa ấy, ông Miên làm một phép so sánh, ví dụ như người miền Trung còn có đám ruộng, khu vườn, nếu lụt lội, ít nhất cũng có chỗ để lội ra lội vào cho đỡ cúm chân, ở Sài Gòn thì không có, mọi thứ đồ đạt phải chồng chất ngổn ngang để chạy nước, bước ra đường thì cơ man các loại xe chết máy, không khí ngột ngạt, không gian chật chội đã khiến Sài Gòn trở thành một chỗ tệ hại nhất mỗi khi ngập lụt.

Hơn nữa, Sài Gòn là một thành phố chứ không phải thôn quê, nên mọi thứ lương thực muốn có đều phải đi mua, muốn mua thì phải có tiền. Những công chức nhà nước, quan chức giàu có thì chuyện mua dự trữ lương thực để sinh hoạt quá đơn giản. Nhưng đó chỉ là con số nhỏ những kẻ có quyền thế, tiền bạc, đa phần người Sài Gòn đều là những người tứ xứ đến ngụ cư để tìm tương lai, công việc kiếm cơm hằng ngày là buôn bán nhỏ lẻ.

Chính vì đặc trưng công việc làm ngày nào lo bữa đó nên khi có ngập lụt, không buôn bán được, những người nghèo Sài Gòn có nguy cơ đói rất sớm. Và, nếu như miền Trung ngập lụt trong hai tuần, cần cứu trợ thì Sài Gòn, chỉ cần ngập lụt trong hai ngày đã có rất nhiều gia đình nghèo cần được cứu trợ, rất tiếc là ít ai nghĩ đến việc cứu trợ ở một thành phố lớn như Sài Gòn và cũng ít ai dám tin rằng thành phố Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông một thời lại có người đói. Nhưng đó là sự thật, Sài Gòn sẽ đói xanh xương với những lao động nghèo, với giới bình dân nếu như Sài Gòn ngập lụt liên tiếp nhiều ngày liền.

Và có một chuyện nữa mà có không nghĩ đến cũng sẽ không được là khả năng ngập lụt Sài Gòn sẽ còn kéo dài chưa có hồi kết. Hàng loạt các công trình giao thông được xây dựng, trong đó có cầu vượt chỉ giúp cho lượng lưu thông bớt ngột ngạt, giảm bớt kẹt xe nhưng sẽ không làm giảm được tình trạng ngập lụt ở thành phố vì một phần do các công trình cao tầng mọc ra quá nhiều ở Sài Gòn đã khiến cho địa tầng khu vực này bị tổn thương và phần khác là hệ thống cống thoát nước của Sài Gòn chẳng bao giờ đuổi kịp mức độ xả ra của cư dân chứ đừng nói gì đến chuyện thoát được mưa ngập.

Một mặt nước sống dâng cao, mặt khác hệ thống thoát nước vấn vấn đề, hai yếu tố này sẽ giúp người Sài Gòn khỏi cần tưởng tượng cảnh bắt cá giữa đường hay bơi ghe sang thăm hang xóm mà điều đó nhanh chóng trở thành hiện thực và lãng mạng vừa đủ để gọi đó là hiện thực xã hội chủ nghĩa! Nói đến đây, ông Miên lắc đầu, cười buồn.

Công cuộc lội nước kiếm cơm giữa Sài Gòn

Ông Huỳnh, một cư dân Sài Gòn khác đang ngụ cư tại quận Bình Thạnh, Sài Gòn, chia sẻ: “Mưa lớn thì nó ngập, thỉnh thoảng triều cường lên nó cũng ngập, như bên quận 10, quận 6 ngập cao quá thì khó đi lại, xe thì chết máy.”

Theo ông Huỳnh nhận thấy, những người bán hàng rong giống như ông kiếm sống bằng những công việc lạo động phổ thông hoặc làm công nhân ở các khu công nghiệp tại Sài Gòn chiếm số đông trong thành phố Sài Gòn. Và đây cũng là những người thường xuyên có mặt ở khắp các nẻo đường Sài Gòn, chén cơm manh áo của họ hoàn toàn phụ thuộc vào bước chân họ đi qua những nẻo đường thành phố. Chính vì vậy, khi thành phố ngập lụt cũng đồng nghĩa với việc họ phải treo giò chịu trận. Nếu thành phố ngập lụt lâu ngày, chuyện đói đối với họ là rất thường tình.

Ông Huỳnh buồn bã nói thêm rằng sống ở Sài Gòn thời bây giờ là một hệ lụy của sự phóng lao phải theo lao. Như chính gia đình ông, từng nghĩ rằng Sài Gòn là miền đất hứa, sẽ giúp đổi đời, ông đã bán toàn bộ tài sản, nhà cửa ở quê Quảng Ngãi để vào mua một mảnh đất nhỏ vùng ven Bình Thạnh để làm nhà, sinh sống. Cuộc sống bôn tẩu xứ Sài Gòn luôn làm gia đình ông lao đao vì việc kiếm cơm quá khắc nghiệt và lây lất.

Đã thế, mang tiếng là người sống giữa thành phố lớn nên mỗi khi quê nhà, dòng tộc có chuyện gì, ông cũng phải chắt mót gửi tiền về để ủng hộ, xây dựng. Đời sống vốn đã khó lại thêm khó nhưng ông chẳng biết chia sẻ cùng ai. Mùa mưa năm nay, tuy chưa vào lúc đỉnh điểm nhưng nhà cùa ông Huỳnh đã bị ngập lụt gần ba tuần nay. Và không biết đến bao giờ sẽ hết ngập lụt, nguy cơ đói đang cần kề gia đình ông.

Còn rất nhiều gia đình lao động nghèo ở các quân vùng ven cũng như các xóm nước đen ở quận Tư, quận Hai, quận Gò Vấp, quận Bình Thạnh và một số quận khác ở Sài Gòn luôn phải đối diện với ngập lụt, đói khổ. Nhưng rất tiếc, họ đang sống giữa Sài Gòn, thành phố mệnh danh Hòn Ngọc Viễn Đông một thời, nên có đói rát ruột chăng nữa thì cũng là người thành phố!

…………………………..

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics