Giá trị tinh thần lập hiến Việt Nam Cộng Hòa
Nguyễn Quang Duy Gửi tới BBC từ Melboune, Úc
Nguồn:BBC- 25 tháng 10 2016
Biểu tình phản đối Vua Bảo Đại ở Sài Gòn ngày 18/05/1955
Nền Cộng hòa non trẻ của miền Nam Việt Nam đã chấm dứt vào 30 tháng 4 năm 1975 nhưng giá trị tinh thần cộng hòa vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Nhân kỷ niệm 60 năm ngày bản Hiến pháp Đệ nhất Cộng hòa ra đời ngày 26-10-1956, xin được ôn lại các giá trị có thể học hỏi từ tinh thần lập hiến Việt Nam Cộng Hòa.
Hiến pháp 1956
Ngày 26/10/1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm chính thức thông báo kết quả Trưng cầu Dân Ý truất phế Bảo Đại, thành lập Việt Nam Cộng hòa, với Hiến ước Tạm thời làm cơ sở pháp lý điều hành quốc gia.
Tháng 3/1956 một Quốc hội Lập hiến với 123 dân biểu được bầu. Đến tháng 7-1956 Quốc hội bỏ phiếu thông qua bản Hiến pháp.
Ngày 26/10/1956 Hiến pháp được Quốc trưởng Ngô Đình Diệm ban hành.
Tinh thần lập hiến và dân chủ chưa đủ
Keystone/Getty Images
Ông Ngô Đình Diệm, tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa, xuất hiện tại một hội chợ ở Sài Gòn năm 1957
Chiếu điều 95 và 96 của bản Hiến pháp 1956, Quốc hội Lập hiến tự động trở thành Quốc hội Lập pháp và Quốc trưởng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa.
Lẽ ra hai điều này không nên có vì đã mâu thuẫn với Điều 2 là điều căn bản nhất của thể chế Cộng Hòa: “Chủ quyền thuộc về toàn dân”.
Nói cách khác Quốc hội Lập hiến đã tước quyền người dân bầu chọn một Quốc hội Lập pháp và vị tổng thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hòa.
Điều 3 “Tổng thống lãnh đạo Quốc dân” mang xu hướng suy tôn chức danh Tổng thống. Điều 89 “không thể sửa đổi hoặc hủy bỏ các Điều 1, 2, 3, 4, và điều này (89) của Hiến pháp,” nghĩa là Điều 3 được đặt ngang hàng và được bảo vệ tuyệt đối như Điều 2 “Chủ quyền thuộc về toàn dân”.
Nói cách khác, quyền lực tuyệt đối đã được Hiến pháp trao cho Tổng thống, do đó quyền dân chủ đã bị giới hạn trong Hiến pháp Đệ Nhất Cộng Hòa.
Trong khi miền Nam đang bị cộng sản đe dọa, lẽ ra vai trò của các đảng chính trị và của địa phương phải được đặt lên hàng đầu thì Hiến pháp 1956 lại chỉ tập trung vào trung ương mà không hề đề cập đến địa phương, thành phố, tỉnh, xã, thị xã… cũng không đề cập đến vai trò các đảng chính trị.
Thiên thứ 9 quy định việc sửa đổi Hiến pháp với nhiều bước chặt chẽ. Chương này chỉ thuận lợi cho những chính trị gia đã tham gia guồng máy công quyền, nhưng lại giới hạn cơ hội của dân và của thành phần cấp tiến muốn thay đổi đất nước thông qua việc sửa đổi Hiến Pháp.
Tam quyền phân nhiệm
AFP/Getty Images
Vị Hoàng đế cuối cùng của Việt Nam, Bảo Đại
Vai trò và nhiệm vụ của Tổng thống, của Quốc hội và của thẩm phán được nêu rõ trong các Thiên (Chương) ba, bốn và năm của bản Hiến pháp 1959.
Thiên thứ sáu dành cho Đặc biệt Pháp viện là một tòa án đặc biệt có thẩm quyền xét xử Tổng thống, Phó Tổng thống, Chánh án Tòa Phá án, và Chủ tịch Viện Bảo hiến, trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội.
Thiên thứ bảy về Hội đồng Kinh tế Quốc gia do Phó Tổng thống là Chủ tịch có nhiệm vụ trình bày sáng kiến và phát biểu ý kiến về các dự thảo, dự án kinh tế.
Thiên thứ tám về Viện Bảo Hiến nhằm phán quyết về tánh cách hợp hiến của các đạo luật, sắc luật, và quy tắc hành chánh.
Kinh tế tự do
Chương hai nêu rõ việc Quốc gia (chính phủ) công nhận và bảo đảm tất cả các quyền tự do cá nhân.
Đặc biệt Điều 20: “Quốc gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu.” Bên cạnh việc khuếch trương kinh tế tự do chiếu theo điều 20 này chính phủ đã có những chính sách vô cùng tích cực.
Lấy thí dụ, chính phủ quy định các loại xe chuyên chở công cộng như xe taxi, xe lam… cho nhập cảng xe mới và đem bán trả góp cho tài xế. Hai loại xe này nhanh chóng trở thành những phương tiện di chuyển thông dụng nhất tại miền Nam.
Chương trình Người cày có ruộng, chính phủ mua lại ruộng đất của điền chủ đem bán lại cho tá điền qua phương cách trả góp.
Ngoài một số hoạt động công ích xã hội, như điện, nước, hàng không,… thì sinh hoạt kinh tế hoàn toàn tự do. Chính phủ không cạnh tranh với tư nhân và chỉ giữ vai trò khuyết trương kinh tế và bảo đảm tư nhân cạnh tranh một cách công bằng và hợp pháp.
Three Lions/Getty Images
Người bán bánh mỳ ở gần Chợ Lớn vào khoảng năm 1956
Ngay trong giáo dục Chương trình tư thục được chính phủ khuyến khích và nâng đỡ, nhờ đó chia sẻ gánh nặng với chính phủ và đã đào tạo nhiều thế hệ thanh niên sẵn sàng đóng góp cho quốc gia dân tộc.
Chính phủ còn cho thành lập các khu kỹ nghệ như Thủ Đức, An Hòa, Nông Sơn… Nhiều nhà máy được xây dựng như nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy thủy điện Đa Nhim, nhà máy vải sợi Vinatexco Đà Nẵng, Vimytex Sài Gòn, Nhà máy thủy tinh, mỏ than Nông Sơn.
Các quốc gia khác sau khi giành độc lập đều có khuynh hướng bảo vệ thị trường, chính phủ trực tiếp làm kinh tế, quốc hữu hóa công xưởng, đề ra các chính sách bảo vệ thị trường. Trong khi miền Nam lại theo kinh tế tự do nên kinh tế và kỹ nghệ đã phát triển nhanh hơn các quốc gia trong vùng.
Hòa giải tranh chấp lao công
Thiên thứ bẩy về Hội đồng Kinh tế Quốc gia mà hội viên gồm các nghiệp đoàn và các ngành hoạt động kinh tế, các tổ chức hoạt động xã hội liên hệ với kinh tế và các nhà kinh tế học.
Chính phủ cũng đề ra chính sách dung hòa quyền lợi giữa chủ và thợ, giảm thiểu các tranh chấp lao công, khiến cho xã hội hài hòa cùng nhau phát triển sản xuất nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.
Đây là một điểm son của của xã hội miền Nam, nhờ đó cộng sản không thể lợi dụng biến các cuộc biểu tình đình công đòi hỏi quyền lợi của giới thợ thuyền thành những cuộc biểu tình chính trị.
Tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc
Three Lions
Xe ba gác nối trung tâm Sài Gòn với Chợ Lớn, khoảng năm 1959
Trong lời mở đầu Hiến pháp nêu rõ: “… dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước đấng Tạo hóa và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh và nhân bản bảo vệ phát triển con người toàn diện.”
Nhìn chung Hiến pháp 1956 xây dựng trên tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc, tinh thần này được tiếp tục duy trì trong Hiến pháp 1967.
Hiến pháp 1967
Sau đảo chánh 1-11-1963, miền Nam bị đẩy vào tình trạng khủng hoảng chính trị, các chính phủ quân sự và dân sự liên tiếp được thành lập. Để có cơ sở pháp lý mỗi chính phủ đã ban hành Hiến chương riêng.
Mãi đến tháng 9/1966, một Quốc hội Lập hiến gồm 117 dân biểu được bầu ra. Một Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp được thành lập rút ưu khuyết điểm Hiến pháp 1956, nghiên cứu và tham vấn nhiều bản hiến pháp các quốc gia khác, đặc biệt là Pháp, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Tam quyền phân lập, dân chủ và phân quyền
Ngày 01/04/1967 Hiến pháp 1967 được công bố, theo đó nguyên tắc kiểm soát và đối trọng giữa các nhánh quyền lực được triệt để tuân thủ.
Lập pháp (lưỡng viện), hành pháp và tư pháp hoàn toàn độc lập. Vai trò và nhiệm vụ của lập pháp, hành pháp và tư pháp được nêu rõ trong các Chương ba, bốn và năm của bản Hiến pháp.
Để tránh nguy cơ độc tài, Hiến pháp 1967 đặt ra chế độ Tổng thống Lưỡng viện, với chức vụ Thủ tướng nhằm chia sẻ trách nhiệm và quyền hành của Tổng thống.
Đặc biệt, trong Chương 5 về Hành pháp, Điều 70 nêu rõ: “Nguyên tắc địa phương phân quyền được công nhận cho các tập thể địa phương có tư cách pháp nhân như: xã, tỉnh, thị xã và thủ đô.” Các Điều 65, 70, 71, 72, 73, 74, 75 và 114 tạo cơ sở pháp lý cho các các chính quyền địa phương.
Chương 6 về vai trò và nhiệm vụ của các Định chế Đặc biệt bao gồm Đặc biệt Pháp viện, Giám sát Viện, Hội đồng Quân lực, Hội đồng Văn hóa Giáo dục, Hội đồng Kinh tế Xã hội, Hội đồng các Sắc tộc.
Vai trò chống tham nhũng của Giám sát Viện được nêu rõ: “Thanh tra, kiểm soát và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền và tư nhân đồng phạm hay tòng phạm về mọi hành vi tham nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế hoặc phương hại đến quyền lợi quốc gia.”
Chính đảng và đối lập
Chương 7 về Chính đảng và đối lập, nền Đệ nhị Cộng hòa khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng đối lập như sau:
“Điều 99
1- Quốc Gia công nhận chánh đảng giữ vai trò thiết yếu trong chế độ dân chủ.
2- Chánh đảng được tự do thành lập và hoạt động theo các thể thức và điều kiện luật định.
Điều 100 – Quốc Gia khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng.
Điều 101 – Quốc Gia công nhận sự định chế hóa đối lập chính trị.
Điều 102- Một đạo luật sẽ ấn định quy chế chánh đảng và đối lập chính trị.”
Nhìn chung Hiến pháp 1967 vừa ngắn gọn, rõ ràng, vừa nêu rõ chính phủ phải bảo đảm những quyền tự do căn bản, kể cả quyền đối lập chính trị.
Sinh hoạt chính trị ở miền Nam cho đến 30-4-1975 đã chịu nhiều ảnh hưởng chủ trương lưỡng đảng đối lập.
Để tránh tình trạng quân đội cấu kết với các đảng phái chính trị, Chương 2, Điều 23 cấm “quân nhân tại ngũ không được sinh hoạt đảng phái”.
Hữu sản hóa nhân dân
Điểm mạnh nhất của mô hình Đệ Nhất Cộng Hòa là phát triển kinh tế tự do. Điểm mạnh này đã được tiếp tục trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa.
Về công nghiệp, khu Kỹ nghệ Biên Hòa là một thành tựu xuất sắc phát triển vào bậc nhất trong vùng Đông Nam Á. Mặc dù có chiến tranh, nhưng kinh tế và kỹ nghệ miền Nam vượt hẳn các quốc gia trong vùng.
Điểm đặc biệt của Hiến Pháp 1967 với Điều 19 phần 2 “Quốc gia chủ trương hữu sản hóa nhân dân” và Điều 22 “Quốc gia chủ trương nâng cao đời sống nông dân và đặc biệt giúp đỡ nông dân có ruộng đất canh tác.” Sự thành công của chánh sách Người cày có ruộng và Chương trình cơ giới hóa nông nghiệp chính nhờ các điều khoản nói trên.
Hiến pháp nhân bản, khai phóng và dân tộc
Thừa kế tinh thần Đệ nhất Cộng hòa, Hiến pháp 1967 lấy nhân bản, khai phóng và dân tộc làm quốc sách. Điều 11 ghi rất rõ: “Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản.”
Điều 2 phần 2 nêu rõ tinh thần cộng hòa: “Quốc gia chủ trương sự bình đẳng giữa các công dân không phân biệt nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, đảng phái. Đồng bào thiểu số được đặc biệt nâng đỡ để theo kịp đà tiến bộ chung của dân tộc.”
Keystone Features/Getty Images
Người dân Sài Gòn, 1959
Các điểm nổi bật
Nhìn chung Hiến pháp 1967 vừa ngắn gọn, rõ ràng, vừa nêu rõ chính phủ phải bảo đảm những quyền tự do căn bản, kể cả quyền đối lập chính trị. So với các quốc gia trong vùng Đông Nam Châu Á cùng thời, Hiến pháp 1967 chỉ rõ sự tiến bộ vượt bậc của Việt Nam Cộng Hòa.
Còn so với thực tế Việt Nam Cộng Hòa có một số đặc điểm nổi bật như:
1. Các quyền tự do căn bản đã được chính phủ bảo đảm, đặt biệt là quyền tư hữu;
2. Xây dựng được một nền dân chủ tam quyền phân nhiệm, phân lập và phân quyền;
3. Xây dựng thành công một nền văn hóa giáo dục, lấy nhân bản, khai phóng và dân tộc làm căn bản;
4. Tôn giáo, văn học, văn nghệ, nghệ thuật phát triển;
5. Báo chí tự do;
6. Theo kinh tế thị trường tự do;
7. Nhưng vẫn bảo đảm được công bằng xã hội và dân sinh như y tế đại chúng hay thực hiện luật Người Cày Có Ruộng;
8. Một xã hội dân sự phát triển.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy các yếu tố trên là căn bản trong việc phát triển quốc gia. Nghĩa là nếu miền Nam không rơi vào tay cộng sản thì Việt Nam Cộng Hòa sẽ không thể kém xa các quốc gia Đông Nam Châu Á như hiện nay. Nếu không nói là sẽ vượt trội hơn nước người.
Tinh thần lập hiến và thượng tôn pháp luật pháp thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đó và sẽ được học hỏi kế thừa khi Việt Nam có tự do dân chủ.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của ông Nguyễn Quang Duy từ Melbourne, Úc.
……………………………………………………………………….
Hà Nội trải thảm đỏ đón tư lệnh Mỹ tại Thái Bình Dương
Nguồn:nguoiviet.com-October 27, 2016
Ðô Ðốc Harry B. Harris, Jr., tư lệnh Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ (phải) được Trung Tướng Phan Văn Giang, tổng tham mưu trưởng quân đội CSVN, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng đón tiếp tại Bộ Quốc Phòng CSVN. (Hình: Ðại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Hà Nội)
HÀ NỘI (NV) – Bộ Quốc Phòng CSVN vừa trải thảm đỏ đón tư lệnh lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương, một cử chỉ biểu thị sự quý mến khi mối quan hệ an ninh quốc phòng hai nước ngày một tốt hơn.
Ðô Ðốc Harry B. Harris, tư lệnh lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương đến Hà Nội ngày 26 tháng 10, 2016. Tại đây, ông không những gặp Trung Tướng Phan Văn Giang, tổng tham mưu trưởng quân đội CSVN, mà còn gặp cả ông Trần Ðắc Lợi, phó trưởng Ban Ðối Ngoại Trung Ương đảng CSVN và Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Hoài Trung.
Thông cáo báo chí của Ðại Sứ Quán Mỹ tại Hà Nội cho hay, “Ðô Ðốc Harris tái khẳng định cam kết của Hoa Kỳ trong việc tăng cường quan hệ song phương và nâng cao khả năng và năng lực của Việt Nam, đặc biệt trong các lĩnh vực an ninh hàng hải và thực thi pháp luật.”
“Ðô Ðốc Harris đề cao hoạt động hợp tác quân sự gần đây giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai, và hỗ trợ hoạt động gìn giữ hòa bình đa quốc gia. Ðô Ðốc Harris cũng đề cao hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong việc tiếp tục xử lý các vấn đề chiến tranh để lại, trong đó có tìm kiếm quân nhân mất tích và nỗ lực giảm các mối đe dọa từ vật liệu chưa nổ,” bản thông cáo viết.
Vẫn theo bản thông cáo, “Trong thời gian còn lại của chuyến thăm, Ðô Ðốc Harris sẽ tới Sài Gòn, Ðà Nẵng và khánh thành một cơ sở bảo dưỡng và nâng hạ tàu của Cảnh Sát Biển Việt Nam tại Bộ Tư Lệnh Vùng Cảnh Sát Biển 2, tỉnh Quảng Nam, được xây dựng với sự hợp tác của Hoa Kỳ.”
Ðô Ðốc Harris tới Việt Nam chỉ một ngày sau cuộc gặp của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ John Kerry với nhân vật số 2 của đảng CSVN Ðinh Thế Huynh ở Washington DC. Trong cuộc gặp này, ngoài nhiều vấn đề khác, ông Kerry đề cập đến việc hai nước Việt Nam-Hoa Kỳ đều có quyết tâm bảo đảm việc tôn trọng luật pháp tại Biển Ðông.
Theo giới phân tích thời sự quốc tế, tổng thống mới của Philippines không úp mở chủ trương “bỏ Mỹ theo Tàu” có vẻ làm Hà Nội lo ngại bị yếu thế hơn trong việc chống lại chính sách bá quyền bành trướng của Trung Quốc tại Biển Ðông.
Việc ngoại trưởng Mỹ tái xác định chủ trương của Mỹ không thay đổi khi xoay trục sang Á Châu nhằm cố trấn an Hà Nội và Ðô Ðốc Harris lập lại chính sách này khi gặp các chức sắc CSVN.
Khu trục hạm trang bị hỏa tiễn USS Decatur của Hạm Ðội 3 ngày 21 tháng 10, 2916 đã nhận lệnh thực hiện chuyến tuần tra “tự do hải hành” tại vùng biển Hoàng Sa rất gần với các đảo Phú Lâm và Tri Tôn để thách thức tuyên bố chủ quyền mà Bắc Kinh đưa ra ở Biển Ðông. Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc cướp năm 1974 sau một trận hải chiến với Hải Quân VNCH.
Trong khi Bắc Kinh giận dữ gọi hành động của Mỹ là “gây rối,” theo CNN, Ngũ Giác Ðài tuyên bố, hoạt động của chiến hạm USS Decatur là “bình thường” tuy có bị chiếm hạm Trung Quốc bám theo.
Dịp này ông Josh Earnest, phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc phát biểu rằng, “Các quốc gia ven biển không thể giới hạn bất hợp pháp quyền tự do hàng hải. Mỹ và các nước khác có quyền sử dụng biển một cách tự do, hợp pháp trong khuôn khổ luật pháp quốc tế.”
Trước đó, khi họp với đại diện Hoa Kỳ trong cuộc đối thoại chính sách quốc phòng lần thứ 7, Thứ Trưởng Quốc Phòng CSVN Nguyễn Chí Vịnh hoan nghênh các chuyến tuần tra “tự do hải hành” của lực lượng Mỹ để đem lại hòa bình ổn định cho khu vực. (TN)
………………………………………………………..
Trường Sa và Cam Ranh: Những biểu hiện phân hóa giữa ‘thân Trung’ và ‘hướng Mỹ’?
Nguồn:VOA/Blog- 28.10.2016
Phạm Chí Dũng
Sau Trung Quốc, ‘nhân vật số 2′ của Việt Nam đi Mỹ
Vào những ngày này, Đinh Thế Huynh – nhân vật thứ 5 trong Bộ chính trị nhưng lại là số 2 trong đảng CSVN – đang bất ngờ “có mặt” ở Washington. Chính trường và giới quốc phòng Việt Nam lại đang diễn ra những động thái “lạ”. Nếu chưa thể thừa nhận về một lực lượng chính trị “thân Mỹ” ở Việt Nam, bạn có thể đặt cho lực lượng này cái tên gì?
‘Hướng Mỹ’
Lịch sử chính trị cận đại ở Việt Nam đã có một lần được đánh bóng đặc biệt với cái tên Nguyễn Tấn Dũng – thủ tướng trước Đại hội XII. Trong cuộc chạy đua giành ghế tổng bí thư với Nguyễn Phú Trọng, ông Dũng được một số “chuyên gia cận thần”, vài ba trang blog tiếm danh lề trái, kể cả một số trí thức có khuynh hướng dân chủ thổi bùng niềm kỳ vọng vào ông như một “Gorbachev” của những năm 80 thế kỷ XX, hay “Putin” những năm 90 của thế kỷ trước, hoặc “thân Mỹ” của thế kỷ này.
Tuy thế, lịch sử lại tréo ngoe ở chỗ chưa bao giờ người Mỹ cảm thấy vui mừng vì sự hiện diện của một “lực lượng thân Mỹ” ở Việt Nam, và cũng chưa bao giờ chính phủ hay bất kỳ một cơ quan có trách nhiệm nào của Mỹ xác nhận, dù là một cách hết sức không chính thức, về bất kỳ một lực lượng chính trị nào ở Việt Nam được Mỹ ủng hộ.
Đơn giản là “Dũng không theo ai, Dũng chỉ theo Dũng” – như một chân lý mà những người tỉnh táo đã rút ra trước và sau Đại hội XII để khỏi ôm nỗi thất vọng không thể có cơ hội sửa sai.
Và nếu Nguyễn Tấn Dũng mà còn bị nhận chân là không đủ “theo Mỹ” để “cứu nước”, sau ông ta lại không có một gương mặt chính khách nào có thể được liệt vào loại “thân Mỹ”.
Vì thế, một cái tên có lẽ vẫn khiên cưỡng, nhưng có thể tạm thời chấp nhận, được dùng để chỉ một nhóm, hoặc cao hơn là một thế lực chính trị đang thành hình có khuynh hướng tìm cách dựa dẫm vào sức mạnh quân sự và kinh tế của người Mỹ để mưu đồ cho cuộc tranh giành sống mái về quyền lực cho nhóm lợi ích của mình trên mảnh đất Việt ngày càng tan hoang, có thể là “Hướng Mỹ”.
Những động thái ‘lạ’
Khác với thế thúc thủ vào năm 2015 và khác hẳn thế tủi nhục vào năm 2014, từ đầu năm 2016 đến nay đã xuất hiện một số chỉ dấu cho thấy giới quân sự và có thể cả giới ngoại giao Việt Nam đã tìm cách đi trước gã khổng lồ phương Bắc.
Tháng 2/2016, Việt Nam lần đầu tiên trở thành “quan sát viên” trong một cuộc tập trận có tên là Hổ Mang Vàng của Mỹ và các nước đồng minh. Sau đó lần đầu tiên đã diễn ra cuộc diễn tập quân sự chung giữa Nhật Bản và hải quân Việt Nam tại Đà Nẵng. Cũng sau đó, trước sự kiện một tàu quân sự Mỹ áp sát đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa và bị phía Trung Quốc công kích dữ dội, phía ngoại giao Việt Nam cũng lần đầu tiên tỏ ra “can đảm” khi dè dặt tuyên bố “tàu Mỹ đi qua vô hại”.
Tuy nhiên, hành động tỏ ra có “dũng khí” nhất là lần đầu tiên sau nhiều năm, vào đầu năm 2016 hải quân Việt Nam đã dám bắt giữ một tàu của Trung Quốc, dù đây chỉ là tàu chở dầu để tiếp vận cho hàng trăm tàu đánh cá Trung Hoa xâm phạm một cách có chủ ý và có hệ thống vùng biển Việt Nam.
Đến tháng 8/2016, hãng tin Anh Reuters đã trở thành cơ quan thông tấn đầu tiên bật mí một sự kiện mà có thể làm Tập Cận Bình sôi máu: quân đội Việt Nam âm thầm đưa tên lửa ra quần đảo Trường Sa như một cách để đối kháng với tên lửa của Trung Quốc đưa ra đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Sự thể càng đáng ngạc nhiên hơn khi trong một cuộc trả lời phỏng vấn của Reuters, thứ trưởng quốc phòng hiện thời là Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã không bác bỏ thông tin tuyệt mật này mà lại úp mở: “Di chuyển bất kỳ loại vũ khí nào đến bất kỳ khu vực vào bất kỳ lúc nào trong vùng lãnh thổ có chủ quyền của chúng tôi là quyền hợp pháp của chúng tôi”.
Chỉ ít ngày trước chuyến đi Trung Quốc của ông Đinh Thế Huynh, Thường trực Ban bí thư, vào tháng 10/2016, ông Nguyễn Chí Vịnh cũng phát ngôn rất đáng chú ý: “Việt Nam cam kết hỗ trợ Mỹ và đồng minh can thiệp vào tình hình khu vực, miễn sao điều đó mang lại hòa bình, ổn định và thịnh vượng”. Phát ngôn này được đưa ra trong cuộc trao đổi với bà Cara Abercrombie, Trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ phụ trách vấn đề Nam và Đông Nam Á.
Hoàn toàn dễ dàng nhận ra sự khác biệt về “bản lĩnh Nguyễn Chí Vịnh” của năm nay với những năm trước. Khi nổ ra vụ giàn khoan Hải Dương 981 ngự trị ngay trước mũi chính thể Hà Nội vào năm 2014, tướng Vịnh đã không một lời phản kháng. Và ông ta cũng chẳng làm khác hơn khi hàng chục lần tàu cá, tàu hải giám Trung Quốc tấn công tàu cá và giết hại ngư dân Việt.
Còn giờ đây, tướng Vịnh bất thần trở nên có “dũng khí” hơn, dù chỉ đôi chút. Lời lẽ và quan điểm đối ngoại của ông cũng quyết đoán hơn, dù vẫn còn quá nhiều từ ngữ mập mờ mà muốn hiểu sao cũng được.
Chuyện gì đang xảy ra?
Có vẻ đang diễn ra những động thái “lạ” trong chính trường Việt Nam, đặc biệt liên quan đến mảng đối ngoại con thoi và phòng thủ quân sự. Và dường như giữa các động thái đối ngoại giữa một số nhân vật chính trị lại không ăn khớp với nhau, nếu không nói là ngược chiều nhau.
Bí ẩn Cam Ranh
Cam Ranh có thể được xem là một hình mẫu cho quan điểm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”, nhưng cũng rất có thể đang ẩn giấu một cuộc so kè giữa hai thế lực “thân Trung” và “hướng Mỹ” trong nội bộ đảng CSVN.
Tháng 10/2016, chỉ ít ngày sau khi 2 tàu khu trục Mỹ cập cảng Cam Ranh. Đây là sự kiện lần đầu tiên kể từ năm 1975, một sự kiện khác cũng mang tính lần đầu tiên và được quan tâm không kém là 3 tàu chiến Trung Quốc cũng cập cảng Cam Ranh.
Thậm chí, giới phân tích còn cho biết 3 tàu chiến của Trung Quốc ghé thăm cảng Cam Ranh thuộc hạm đội Đông Hải, hạm đội đã từng tham gia vào vụ thảm sát Gạc Ma năm 1988. Một cách nào đó, đây là sự xúc phạm đến oan hồn của 64 binh sĩ Việt Nam bị phía Trung Quốc tàn sát năm 1988.
Sự kiện tàu chiến Trung Quốc cập cảng Cam Ranh lại được báo chí nhà nước thông tin cùng thời điểm với một chuyến công du đặc biệt: Thường trực Ban bí thư Đinh Thế Huynh, nhân vật số 2 trong đảng, đến Bắc Kinh và đặc biệt có một cuộc gặp với Tập Cận Bình. Khoảng thời gian mà ông Huynh ở Trung Quốc lại trùng với thời gian mà Tổng thống Philippines Duterte cũng đến quốc gia này và đưa ra một tuyên bố khó có thể đồng bóng hơn: Philippines quyết định chia tay với Mỹ.
Câu hỏi rất cần được giải đáp là có phải “tập thể Bộ Chính trị” đã cùng lúc quyết định cho cả tàu chiến Mỹ lẫn Trung Quốc được cập cảng Cam Ranh theo sách lược “đu dây” truyền thống, hay còn nhân tố nào khác? Nếu không phải là Bộ Chính trị quyết định việc này thì ai đã bật đèn xanh cho tàu Mỹ và ai mời tàu Trung Quốc vào Cam Ranh?
Lối thoát thời tao loạn
Trên bề mặt, tư thế đu dây đối ngoại vẫn là chủ đạo của giới lãnh đạo Việt Nam. Một trong vài bằng chứng mới nhất là Cam Ranh đón cả tàu Mỹ lẫn tàu Trung Quốc để bảo đảm “không liên minh với một nước nhằm chống lại nước thứ ba”.
Bằng chứng gần nhất là ngay sau khi đi Bắc Kinh “thỉnh kiến” Tập Cận Bình, ông Đinh Thế Huynh lập tức “diện kiến” ở Washington. Chuyến công du liên cường quốc của nhân vật thứ 5 trong Bộ Chính trị nhưng lại là số 2 trong đảng này có thể mang hơi hướng nào đó của chuyến công du đột ngột và âm thầm của nhân vật Phạm Quang Nghị, Bí thư thành ủy Hà Nội, đến Washington vào tháng 7/2014. Khi đó, ông Nghị còn được Nguyễn Phú Trọng “chấm” như một ứng cử viên sáng giá cho chức vụ tổng bí thư tại Đại hội XII. Hiện nay, ông Huynh cũng nằm trong tình trạng của ông Nghị quá khứ và có lẽ nhu cầu “đối ngoại” của ông Huynh là lớn chưa từng thấy…
Nhưng sau tất cả những màn trình diễn qua lại trên, câu hỏi cốt yếu vẫn là ai là người quyết định đưa tên lửa ra Trường Sa – một biểu hiện được đánh giá là nếu không có một sự hậu thuẫn đủ mạnh của một thế lực đủ đối trọng với Trung Quốc thì khó lòng xảy ra vào thời gian này?
Trong khi đó, vẫn đang xuất hiện những tin tức ngoài lề cho biết sau phán quyết về đường lưỡi bò của Tòa án quốc tế, Trung Quốc “sẽ hành động” vào một thời điểm nào đó.
Không phải ngẫu nhiên mà giới chóp bu Việt Nam thỉnh thoảng vẫn nhắc lại khẩu hiệu “không để bị động bất ngờ” trong các cuộc thăm viếng các quân khu và đơn vị bộ đội.
Hẳn là trên bình diện tương quan về thế chứ không phải là lực, Việt Nam vẫn đang duy trì xu hướng cậy nhờ lực lượng hải quân Hoa Kỳ, cho dù xu hướng này tiến triển một cách chậm chạp.
Tựu trung những biểu hiện từ đầu năm 2016 đến nay, có vẻ như chính trường Việt Nam đang dần tách thành hai khối chuyên biệt: “thân Trung” và “hướng Mỹ”, bất chấp Tổng Bí thư Trọng cứ mãi rao giảng về “chống tự diễn biến, tự chuyển hóa”.
Lịch sử nước Việt là thế, cứ vào thời tao loạn, mỗi người lại phải tự tìm lối thoát cho riêng mình.
Không chỉ cố gắng tìm kiếm một thế “chống lưng” mới về kinh tế và cả quân sự, mỗi nhân vật chính trị còn phải cố làm sao để bảo đảm cho “hậu vận” của mình không bị mệnh hệ gì nếu nội tình quốc gia “có biến”.
Chỉ có điều, dư luận trong nước và quốc tế cho tới giờ vẫn không hết ngạc nhiên về tính ù lì chậm chạp của giới chính khách nửa mùa ở Việt Nam. Trong khi bài học dân chủ hóa và chuyển giao quyền lực êm ả đã được thực hiện ở Myanmar suốt từ năm 2012 đến nay, những chính khách “muốn thay đổi” ở Việt Nam vẫn như tê cứng bởi nỗi sợ hãi kỷ luật đảng mỗi khi muốn nhúc nhích khỏi quỹ đạo ý thức hệ giáo điều.
=======
* Blog của nhà báo Phạm Chí Dũng là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Phạm Chí Dũng là nhà báo độc lập, tiến sĩ kinh tế sống và làm việc tại Sài Gòn, Việt Nam. Trước năm 2013, đã có thời gian 30 năm làm việc trong quân đội, chính quyền và khối đảng. Do viết bài chống tham nhũng, từng bị công an bắt vào năm 2012. Năm 2013, tuyên bố từ bỏ đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 2014, cùng các cộng sự thành lập Hội nhà báo độc lập Việt Nam và giữ cương vị chủ tịch của tổ chức này. Cũng trong năm 2014, được Tổ chức phóng viên không biên giới vinh danh ‘Anh hùng thông tin’.
…………………………………………