1.Lớp học cuối Tháng Tư 1975 và, Vũ Đức Thanh(DTL)2.Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu(Tuần báoTGNS 115)-

Lớp học cuối Tháng Tư 1975 và, Vũ Đức Thanh

Du Tử Lê
Nguồn:nguoiviet.com- April 21, 2017

    

                                  (Tranh Nguyễn Thanh Bình)

Thời trước Tháng Tư, 1975, tôi có nhận dạy thêm cho một số trường trung học ở Sài Gòn. Số trường và số giờ tôi dạy, không nhiều… Nhưng tôi sẽ không làm được việc này, nếu không có được sự cho phép không chính thức của nhà thơ Cao Tiêu (1929-2012), tức Đại Tá Hoàng Ngọc Tiêu, cục trưởng Cục Tâm Lý Chiến thời đó. Cũng như tôi sẽ không có được cho riêng mình, một vài kỷ niệm hiếm hoi, đáng nhớ.

Tuy thích nghề dạy học từ khi còn nhỏ, nhưng lớn lên, dầm mình trong sinh hoạt văn nghệ, lại bị luật lệ quân đội ràng buộc gay gắt, tôi xóa hẳn mơ ước đi dạy học của mình. Cho đến mùa khai trường năm 1971, do nhu cầu tìm chỗ dạy cho một người bạn ở tỉnh về, tôi có đến gặp ông giám học trường trung học Hiếu Nghĩa, gần doanh trại Cục Tâm Lý Chiến.

Tôi nhớ, ông giám học, cười cười, nhìn tôi một đỗi khá lâu, xong cho tôi một kết luận bất ngờ là: “Chúng tôi sẽ thu xếp giờ dạy cho người bạn của ông, chỉ với một điều kiện, ông phải nhận dạy cho chúng tôi ít giờ. Và cho phép chúng tôi quảng cáo tên ông trong ban giảng dạy.”

Phần tôi, tôi sẽ có đúng một tuần, để trả lời nhận hay không!

Tôi ra về với tất cả băn khoăn, ngỡ ngàng. Khó xử! Nếu không nhận lời, bạn tôi sẽ không có chỗ dạy. Nếu nhận lời, tôi sẽ kẹt với luật lệ của quân đội. Luật quân đội khi đó, quy định rằng, bất cứ một quân nhân tại ngũ nào, nếu muốn đi dạy ở các trường tư thục, đều phải xin phép với Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi không nghĩ giấy xin phép đi dạy học thêm của tôi sẽ được bộ chấp thuận. Khi mà giấy đó phải đi qua không biết bao nhiêu cửa ải! Cửa ải đầu tiên là ông trưởng phòng (sếp trực tiếp của tôi), lên tới trưởng khối, rồi văn phòng cục trưởng. Từ văn phòng cục trưởng, đơn xin của tôi sẽ phải trình lên tổng cục trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.

Sau đấy, tôi thực sự không biết đơn xin của tôi còn cần phải đi qua những cửa ải nào khác nữa. Thí dụ, Cục An Ninh, Tổng Cục Quân Huấn…

Đã không chút hy vọng đơn xin đi dạy ngoài giờ được chấp thuận, mà có khi còn bị “tống” đi nơi khác vì cái tội tham lam (được ở Sài Gòn, lại còn xin đi dạy thêm…)

Gần hết hạn một tuần, tôi trở lại trường Hiếu Nghĩa, định nói lời cám ơn và từ chối, thì tôi gặp một người bạn, tên Khấn (sau này tôi mới biết anh là em vợ của ông giám học, dạy môn Lý Hóa).

Anh hỏi tôi đi đâu lạc mà đến đây? Tôi khai thật cái khó khăn của tôi là, rất muốn nhận lời dạy ít giờ. Nhưng xin giấy phép chính thức thì tôi không thể!

“Mà nếu không có giấy phép, tôi sẽ không thể để trường quảng cáo tên tôi trong ban giảng huấn.”

Thông cảm ngay. Bạn tôi nói: “Đúng rồi, không có giấy phép, dễ bị tố lắm, khi cho tên trên bảng quảng cáo…”

Nói xong, bạn tôi bảo tôi theo anh ấy.

Tưởng đi đâu, hóa ra anh đưa tôi vào văn phòng giám học. Tôi chưa kịp nói gì thì anh đã thay tôi nói với ông giám học, rằng, hãy mời tôi dạy thử ít tháng xem sao? Chưa kể, tôi cũng cần phải có thời gian để xin giấy phép.

“Theo em, trong thời gian đó, mình khoan sắp giờ dạy cho người bạn của anh ấy vội…”

Câu chuyện những tưởng khó có thể giải quyết được một cách êm ả, thì cuối cùng nó đã được dàn xếp một cách nhẹ nhàng, mà sung sướng nhất cho tôi là không phải mở miệng, nói năng gì thêm!

Tiễn chân tôi ra về, anh Khấn đặt một tay lên vai, thân mật bảo: “Nếu ông ngại thì ông có quyền quên đi cái vụ ‘giấy phép.’ Không có cũng chẳng chết thằng Tây nào. Sau một thời gian, mọi người đã quen với việc ông đi dạy thêm thì trường có thêm tên ông vào danh sách giảng huấn hay không, cũng chẳng ma nào nó để ý đâu!”

Bạn tôi nói đúng! Tôi đứng lớp một thời gian dài mà, không bị một rắc rối nào về phía thủ tục hành chánh. Mặc dù, có nhiều lần, tới sát giờ dạy, vẫn không thể có được vài phút thay quần áo dân sự, tôi chạy thẳng đến trường với bộ đồ lính đang mặc.

Nhưng một chuyện khác, tôi không biết phải xếp loại gì (tốt hay xấu?). Chỉ biết đó là một câu chuyện liên quan tới đời sống gia đình, vật chất của một người bạn khá thân. Ông là dân dạy tư thục chính quy, lâu đời và, có tiếng. Chính ông là người móc nối, hoặc chuyển lời mời của một vài trường tư thục khác cho tôi, khi họ muốn mời tôi về cộng tác.

Tôi nhớ hôm đó, vừa xong hai giờ Việt Văn đầu ngày, cho một lớp đệ tam C, thì một học sinh tìm tôi. Em nói, tôi có một thân nhân muốn gặp tôi, ở bên ngoài cổng trường.

Bất ngờ! Tôi vội vàng đi ra. Ngoài cổng trường khi đó, tôi thấy một phụ nữ còn trẻ, không quen, đứng nép một phía. Chị chủ động bước tới, tự giới thiệu tên Y., là vợ của giáo sư X, (chữ dùng thời đó) đi tìm X. vì mấy hôm nay X. không về nhà. Và, cũng không đưa tiền về để nuôi con…

Chỉ với chừng đó câu ngắn, gọn, tôi hiểu chuyện gì đã xẩy ra trong gia đình bạn tôi và, điều gì chị Y. cần nhất trong lúc này.

Tôi rụt rè đề nghị: “Chị có muốn tôi đưa chị vào văn phòng. Gặp ông giám học không?”

Ngập ngừng ít giây, chị Y. lắc đầu. Chị nói chị không muốn có bất cứ một chuyện không tốt nào, ảnh hưởng tới uy tín của chồng. Chị thêm: “Hơn nữa, chuyện này cũng lâu lâu mới xảy ra một lần anh ạ.”

Tôi hiểu rõ ý chị, chỉ muốn nhờ tôi tìm X… Nói với X. sớm mang tiền về cho chị nuôi con…

“Còn chuyện anh ấy với con học trò của anh ấy, chừng nào chán, anh ấy về lại với vợ con, cũng được!” Đó là lời nhắn chót, trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, mà tôi tin chị Y. không muốn… Nhưng chị lại không thể có được một chọn lựa nào khác!

Quan sát chị Y. gần hơn. Tôi thấy chị không son, phấn. Nhưng chiếc áo dài lụa, xanh dương, rộng thinh, phủ ngoài tấm thân gầy còm của chị thì thật không xứng hợp khi mắt chị trũng sâu, quầng mắt chòng chéo nhiều vết nứt âu lo, muộn phiền năm tháng. Chiếc quần tây màu xám, nhàu, xộc xệch trên đôi sandal màu trắng, xỉn, chẳng những không hợp mà, chúng còn tố cáo sự bấp bênh, ngổn ngang của đời sống vật chất, cũng như tinh thần người phụ nữ.

Không hiểu lý do gì mà, hình ảnh chị Y. lúc đó bỗng cho tôi thấy rõ sự bất hạnh của khá nhiều phụ nữ, có chồng thuộc giới văn nghệ sĩ. Nó cũng lao chao, ngặt nghèo như vợ những người lính trong chiến tranh vậy.

Tôi đặt tay lên một bên vai ốm o của chị Y., bằng tất cả lòng kính trọng, thông cảm, tôi hứa, sẽ đi tìm X. ngay và chuyển gấp những gì chị muốn nhắn.

Tôi đến rất nhiều trường, nhưng cũng phải hai ngày sau, mới gặp được bạn. X. có vẻ ngượng với tôi. Anh nói (như thề) sẽ về nhà ngay. Riêng chuyện cô học trò, X. xác nhận có. Nhưng là học trò cũ, chứ không phải hiện tại.

Trong ánh nắng của một buổi chiều sắp tối, đứng nhìn bạn nghiêng đầu trên chiếc vespa cũ, lao đi như một mũi tên buồn, không biết hướng về đâu? Tôi chạnh nghĩ tới mình. Lòng cũng hoang mang. Bất an. Với hàng trăm giằng co, níu kéo không lối thoát, giữa bản năng sinh tồn và mơ mộng hão huyền, bất trắc trong thực tế…

Bẵng đi một thời gian khá dài, vì tình hình chiến sự, đất nước, tôi không có dịp gặp lại X. Chỉ biết chắc, tính tới ngày 30 Tháng Tư, 1975, bạn tôi vẫn sống với người vợ thủy chung, đáng kính của ông. Điều tôi không biết là, 42 năm trôi qua, biết bao nhiêu thảm kịch của tù đày, mất mát, bạn tôi có còn giữ được cái hình ảnh hoang mang, thất lạc là: “Trong ánh nắng của một buổi chiều sắp tối, đứng nhìn bạn nghiêng đầu trên chiếc vespa cũ, lao đi như một mũi tên buồn, không biết hướng về đâu!”

Du Tử Lê

(Còn tiếp một kỳ)

………………………………………………………

Fwd: Thế Giới Nghệ Sĩ số 115 chủ đề Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu (đầy đủ) [2 Attachments]
Kim Vu to:….,me

> Mời anh em xem những ngôi truờng nữ sinh tiếng tăm tại Miền Nam (trích từ Tuần báo Thế Giới Nghệ Sĩ số 115 (phát hành ngày 21 tháng 4 năm 2017).

> TVM
> Chủ Đề: Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu
> nhân kỷ niệm trường Trưng Vương 100 năm thành lập

> Trưng Vương khung cửa mùa Thu


  Ngày còn học trung học, mặc dù là học sinh trường Pháp, nhưng nhà trường đặc biệt dành cho học sinh người Việt Nam có được một giờ Việt văn, thêm một giờ lịch sử và địa lý Việt Nam. Những thầy và cô người Việt vào dạy tại trường Marie Curie hầu như đem hết tâm huyết vào những bài giảng, có lẽ các thầy cô đang lo lắng cho đám học trò này, tuy là người Việt nhưng cứ hằng ngày líu lo tiếng Tây thế thì có ngày mất gốc thôi.
>      Những ngày ấy, nhìn các thầy cô say sưa giảng về đất nước mình, trong lòng Thanh Lan dâng lên một niềm cảm mến sâu xa. Không cô Tám ơi, không cô Năm ơi, không thầy Sang ơi, chúng em không bao giờ quên tiếng Việt, không bao giờ quên những câu thơ của Thế Lữ trong bài “Nhớ Rừng”, những áng văn của Tự Lực Văn Đoàn. Làm sao quên được Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, làm sao quên được Thánh Gióng?
>      Các thầy cô đã dạy cho chúng em lòng yêu nước vô bờ bến và yêu tiếng Việt bằng tất cả tâm can. Và cũng từ những ngày ấy, Thanh Lan đã yêu tha thiết hình ảnh oai nghiêm của Hai Bà Trưng.
>    “Trưng nữ vương lau phấn son lo thù nhà”, vâng tuy là thù nhà vì ông Thi Sách đã bị giặc giết, nhưng đây chính là lòng yêu nước kiên cường, lòng can đảm hiếm có từ những phụ nữ yếu mềm bỗng chốc trở thành nữ tướng.
>      Nhớ lại thì có nhiều bài hát ca ngợi Hai Bà Trưng, Thanh Lan thích nhất là bài Gươm Thần và thích nhất câu “gươm bén oai linh non nước Nam”. Ngay chữ “bén” mà lên nốt cao nghe nó sắc vô cùng.
>     Rồi số phận đưa đẩy, Thanh Lan được khán thính giả, nhất là giới sinh viên học sinh thuở ấy yêu mến nhiều với một bài hát có dính líu đến Trưng Vương, nhưng không phải là Hai Bà mà là trường nữ trung học Trưng Vương. Bài hát được đón nhận rất nồng hậu, nên được in thành bản nhạc để bán cho khách mộ điệu. Hình như cô nữ sinh nào cũng thuộc câu “tim em chưa nghe rung qua một lần…”
>     Thanh Lan còn nhớ như in dáng anh Trường Kỳ lăng xăng trước cửa trường Trưng Vương:
> – Đây đây, Thanh đứng ở gốc cây này này!
>     À, không phải Thanh Lan và anh Kỳ hò hẹn trước cửa trường đâu, anh ấy học Taberd còn Thanh Lan thì học Marie Curie, nhưng cả hai có nhiệm vụ phải chụp cho được tấm ảnh “nữ sinh Trưng Vương”, để làm bìa bài hát. Dĩ nhiên là Thanh Lan rất vui, mỗi lần mặc áo dài là hớn hở hẳn lên vì suốt thời gian trung học phải mặc áo đầm hoài chán quá rồi.
>      Nhớ lại lần đầu tiên được mời hát ở một trường nào đó, chẳng có được một chiếc áo dài mà gấp quá rồi nên Thanh Lan mượn Mẹ chiếc áo dài lụa Thái Lan màu tím hoa cà, nó cũng làm cho mình bị già đi ấy
> chứ, vậy mà hí hửng hớn hở cười suốt buổi.
>     Trở lại với anh Trường Kỳ, nhắc đến anh thì luôn thấy nụ cười chúm chím, hàm râu và cặp kính cận dầy ơi là dầy. Sau này chững chạc thì anh bớt cười chứ hồi nhỏ anh Kỳ nói dứt một câu là phải đệm thêm tiếng cười “hí hí” nho nhỏ nghe rất là hiền khô.
>     Và thế là có hình bìa bản nhạc “Trưng Vương khung cửa mùa thu”, Thanh Lan mặc áo dài trắng, tay cầm vài cuốn tập, đứng trước trường Trưng Vương đàng hoàng chứ không phải như bây giờ, người ta có thể ghép cảnh vào trông như thật.
>      Nhắc đến hình bìa thì lại phải nhắc đến phía trong, là một bài hát Mỹ có tựa đề là “Tell Laura I love her”, nhưng đã trở thành bài hát của giới học sinh Saigon nói chung, vì không có bài hát nào dành cho một trường trung học nào mà lại tràn trề tình cảm như vậy.
>     Bởi vậy mà cho mãi đến ngày hôm nay vẫn có khán giả yêu cầu Thanh Lan hát lại những câu hát dành cho tuổi mới lớn, những lời yêu đương vụng dại, những đợi chờ mong nhớ khi mùa Thu tới. Anh Nam Lộc đã tài tình Việt hóa, thổi hồn thơ Việt vào một bài hát Mỹ kể chuyện tình của một thanh niên nghèo, ghi tên chạy xe đua để mong được thắng cuộc và có tiền để sắm chiếc nhẫn cưới bằng kim cương cho người yêu. Nhưng chàng ta bị tai nạn và trong cơn hấp hối vẫn cố nhắn lại rằng “hãy nói với Laura là tôi yêu cô ấy”.
>      Một bên là chuyện tình bi thảm, một bên là chuyện tình thanh thoát lãng đãng lá thu bay. Đó là hai sắc thái của bài hát này. Cũng như hai mặt của cuộc đời, khi đã trải qua những ngày đen tối, ta mới thấy trân quý ánh sáng.
> California, tháng 4 năm 2017
> Nhân kỷ niệm 100 năm thành lập đi tìm nguồn gốc bài nhạc
> “Trưng Vương khung cửa mùa thu”

> “Nhớ khói bay lạc vấn vương…” (lời Việt Nam Lộc)
>      Tell Laura I Love Her và Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu không chỉ có nội dung khác hẳn nhau mà còn mang lại cho người nghe những cảm xúc hoàn toàn trái ngược: một bi thương sầu thảm, một bâng khuâng thơ mộng.
>     Nội dung của Tell Laura I Love Her, một sáng tác của hai nhà viết ca khúc Jeff Barry và Ben Raleigh, là một thảm kịch tuổi “teen” thời đại:
> alt
>      Laura và Tommy là đôi tình nhân trẻ. Tuy còn rất trẻ, nhưng Tommy đã mong muốn xây dựng hạnh phúc lứa đôi. Để có tiền mua cho Laura cái nhẫn cưới, Tommy quyết định tham gia cuộc đua xe hơi với giải thưởng 1.000 đô-la. Trước khi tới trường đua, Tommy điện thoại cho Laura nhưng không gặp, đành nhờ bà mẹ của nàng nhắn lại: Tell Laura I Love Her!… Trong cuộc đua, xe của Tommy bị lật và bốc cháy; khi nhân viên cấp cứu tới nơi, họ chỉ kịp nghe được câu nói cuối cùng của Tommy trước khi tắt thở: Tell Laura I Love Her!… Rồi một mình trong giáo đường thanh vắng, cầu nguyện cho linh hồn người yêu, Laura vẫn có thể nghe văng vẳng tiếng Tommy: Tell Laura I Love Her!
>        Tại miền nam Việt Nam trước đây, so với những ca khúc phổ thông khác của Mỹ được phổ biến vào đầu thập niên 1960, như Diana, You Are My Destiny của Paul Anka, Oh! Carol, You Means Everything to Me của Neil Sedaka, It’s Now or Never của Elvis Presley…, Tell Laura I Love Her không mấy thịnh hành; nguyên nhân có thể vì trình độ tiếng Anh giới hạn của người nghe, có thể vì lời hát kém phần thơ mộng, cũng có thể vì giai điệu không có sức thu hút bằng những ca khúc kể trên. Vì thế, vào khoảng năm 1974, khi nhạc sĩ Nam Lộc đặt lời Việt với tựa đề “Trưng Vương Khu Cửa Mùa Thu”, đã không mấy người biết đây là một ca khúc ngoại quốc được đặt lời Việt.
>     Nhà báo Trường Kỳ kể lại:
> …Điểm đặc biệt trong cách viết lời Việt của Nam Lộc là nghệ thuật dùng chữ khéo léo khiến người nghe quên hẳn nguồn gốc ngoại quốc của nhạc phẩm đã được hoàn toàn Việt hóa như chủ trương của phong trào Việt hóa Nhạc Trẻ. Điển hình là nhạc phẩm “Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu”.
>     Nếu ai không am hiểu và theo dõi nhạc ngoại quốc sẽ cho rằng đó là một nhạc phẩm thuần túy Việt Nam. Thật ra đó là nhạc phẩm “Tell Laura I Love Her” với giai điệu rất phù hợp và ăn ý với lời ca bằng tiếng Việt, hoàn toàn khác biệt với nội dung. “Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu” được Nam Lộc coi là nhạc phẩm ưng ý nhất của anh suốt thời gian hoạt động trong phong trào nhạc trẻ lúc còn ở Việt Nam. Về trường hợp viết lời “Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu”, Nam Lộc cho biết đã lấy ý từ tên một đặc san do các nữ sinh Trưng Vương thực hiện vào đầu thập niên 70. Tính chất lãng mạn và mềm mại của tên đặc san đã khơi dậy tâm hồn nghệ sĩ nơi anh, một cựu học sinh Chu Văn An, với những mối tình thơ mộng cùng những hẹn hò của tuổi học trò.
> (trích: Nam Lộc, con người văn nghệ và con người xã hội – Tivi Tuần San)
>
>     Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với nhận xét của Trường Kỳ, và trong phạm vi bài này chỉ nêu thêm một chi tiết thú vị: ở Sài Gòn, thành phố của các tà áo trắng “Trưng Vương – Khung Cửa Mùa Thu” không hề có… mùa thu!
>      Viết ra điều này, chúng tôi không chủ ý bài bác, mà ngược lại, chỉ muốn đề cao trí tưởng tượng phong phú của các cô nữ sinh Trưng Vương nói riêng, các thi, văn, nhạc sĩ viết về mùa thu ở một nơi chốn chỉ có mưa nắng hai mùa nói chung.
>
>     Theo các nhà khí hậu học, lãnh thổ Việt Nam được chia ra làm hai vùng khí hậu chính:
> – Miền khí hậu phía Bắc: bao gồm lãnh thổ phía bắc dãy Hoành Sơn (tỉnh Hà Tĩnh) và Bắc Bộ, có khí hậu “cận nhiệt đới” với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông rõ rệt.
> – Miền khí hậu phía Nam: gồm lãnh thổ Trung Bộ từ phía Nam dãy Hoành Sơn và Nam Bộ, có khí hậu nhiệt đới với hai mùa: mùa khô và mùa mưa. Suy ra, Nhìn những mùa thu đi, Chiếc lá thu phai, Gọi tên bốn mùa của Trịnh Công Sơn, Mùa thu mây ngàn của Từ Công Phụng, Mùa thu cho em của Ngô Thụy Miên, Mùa thu trong mưa của Trường Sa, v.v…, đều là những mùa thu đến trong trí tưởng; riêng mùa thu trong bản Thu Ca của Phạm Mạnh Cương có thể gọi là một mùa thu hồi tưởng (những ngày ông ra Hà Nội dạy học).
>     Còn nhớ năm 1993, Trịnh Công Sơn ra Hà Nội thăm Văn Cao; trong bút ký của mình, họ Trịnh đã so sánh cái ảm đạm của mùa thu Hà Nội với nỗi cô đơn của Văn Cao một mình ngồi uống rượu suốt mấy chục năm trường.
>      Mùa thu của Hà Hội buồn lắm. Đó là thu trong Buồn tàn thu, Thu cô liêu của Văn Cao, Giọt mưa thu, Đêm thu, Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong… Còn những mùa thu trong Thu quyến rũ, Gửi gió cho mây ngàn bay, Chuyển bến, Lá đổ muôn chiều, Tà áo xanh… của Đoàn Chuẩn, có lẽ đã được “công tử thành phố Cảng” thi vị hóa, hoặc thu trong Thu Vàng của Cung Tiến đã được cậu học trò 15 tuổi (vào năm 1953) ấy tô điểm thêm.
>     Trở lại với “Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu”, trong số các trường nữ trung học của Hòn ngọc Viễn đông năm xưa, Trưng Vương nằm ở một vị trí yên tĩnh nhất, thơ mộng nhất, ngay cạnh thảo cầm viên Sài Gòn đầy hoa bướm, trên con đường rợp bóng me xanh…
>      Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Trường Sa chỉ cần trí tưởng mà sáng tác được những ca khúc để đời về mùa thu, thì cô (hoặc các cô) nữ sinh Trưng Vương áo trắng nào đó, dù “tim chưa nghe qua rung một lần”, cũng chỉ cần một thoáng mơ mộng, nhìn qua khung cửa, bỗng thấy mùa thu.
> Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu
> Tim em chưa nghe rung qua một lần
> Làn môi em chưa hôn ai cho thật gần
> Tình trần mong manh.Như lá me xanh
> Ngơ ngác rơi nhanh..
> Thu giăng heo may cho bóng cây lạnh đầy Người cho em nghe câu nhớ thương từng ngày. Những ngày đợi chờ. Đợi người qua cơn mơ. Trong nắng vu vơ. Trong mắt ngây thơ..
> Nhớ khói xưa lạc vấn vương
> Cho hơi ấm lên môi người
> Lùa sương kín nhẹ vây ngập trường
> Làm mây yêu thương
> Vương trong hồn em..
>
> Người cho em nghe quen môi hôn ngọt mềm
> Tình cho tim em rung những đêm lạnh lùng Từng chiều cùng người. Về trong cơn mưa bay. Nghe thương nhớ tràn đầy. Lên đôi mắt thật gầy.
> Trưng vương hôm nay mây vẫn giăng đầy trời Công viên năm xưa hoa vẫn rơi tuyệt vời Bóng người thì mịt mùng. Từng hàng me run run. Trong cơn gió lạnh lùng. Trong nắng ngại ngùng
> Nắng vẫn vương nhẹ gót chân
> Trưng Vương vắng xa anh dần
> Mùa thu đã qua một lần
> Chợt nghe bâng khuâng
> Lá rơi đầy sân.
>      Dù không thể có con số chính xác, chúng tôi cũng tin rằng trong số những ca khúc nhạc ngoại quốc lời Việt của thời kỳ “Việt hóa nhạc trẻ” ở miền nam Việt Nam, Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu là bản được nhiều ca sĩ trình bày nhất, được thính giả ưa chuộng nhất.
> (nguồn: Công Mạnh)
> Nhạc Ngoại Quốc Trong Tuần:
> TRƯNG VƯƠNG KHUNG CỬA MÙA THU
> Nhạc Tây, Hồn Việt
>
> Cùng nhìn lại một số trường nữ sinh Việt Nam trước 75
>
> Lời Giới Thiệu:
>     Nhân kỷ niệm 100 năm thành lập trường trung học Trưng Vương, ngoài những loạt bài viết về bản nhạc gắn liền với tên trường “Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu”, Thế Giới Nghệ Sĩ đã tổng hợp, sưu tầm một số tài liệu về các trường trung học nữ sinh tại miền Nam trước 1975.
>     Những tà áo dài thướt tha của Gia Long, Lê Văn Duyệt, Đồng Khánh (Huế), Trưng Vương… như những cánh bướm lượn mãi trong ký ức về Saigon một thời thanh bình, tươi đẹp. Phần tổng hợp từ nhiều nguồn sau đây có thể còn thiếu sót, kính mong quý độc giả đóng góp để hoàn chỉnh hơn.
> alt
> Trường trung học nữ sinh Trưng Vương

 

> Cảnh ngày lễ Truyền Thống của trường Trưng Vương trước năm 1975
>      Trường nữ sinh Trưng Vương tiền thân là trường nữ trung học Trưng Vương từ Hà Nội di cư vào Nam sau năm 1954 thế nên đội ngũ giáo sư học sinh ban đầu chủ yếu là gốc Bắc. Trường Trưng Vương ban đầu phải học nhờ tại Gia Long nhưng sau đó trường đã có cơ sở và khuôn viên riêng. Cụ thể năm 1957, trường dời về số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm, gần sở thú Sài Gòn và cũng gần trường nam sinh Võ Trường Toản nữa. Do vậy, có rất nhiều mối tình thuở thiếu thời Trưng Vương – Võ Trường Toản; chúng vẫn đẹp mãi trong lòng những người cựu sinh viên hai trường. Lại còn bao nhiêu anh chàng nam sinh Võ Trường Toản đã tinh nghịch trèo tường sang Trưng Vương chơi mà làm nên kỷ niệm! Những hình ảnh một thời có lẽ chăng thể nào phôi pha.
>     Những nàng nữ sinh Trưng Vương thướt tha không thoát khỏi ngòi bút đa tình của nhạc sĩ Phạm Duy. Hình ảnh “người con gái Văn Khoa” cho tới nay vẫn là một trong những hình tượng đẹp nhất về người con gái trong mắt mình. Những nàng văn khoa Trưng Vương trong tà áo trắng lả lướt một thời luôn làm người yêu cái đẹp xưa một chút gì đó xao xuyến, bồi hồi và đôi chút tiếc nuối.
>     Sau năm 1975, trường vẫn giữ tên là Trưng Vương nhưng đào tạo cả nam lẫn nữ.

> Trường trung học nữ sinh Gia Long

> Cô gái trường Gia Long
>      Trường Gia Long là một trong những ngôi trường nữ sinh nổi tiếng một thời có lịch sử tới hơn 100 năm. Trường được mở từ thời Pháp thuộc dưới kiến nghị của nghị viên hội đồng Quản Hạt Nam Kỳ Lê Văn Trung và vợ tổng đốc Phương cùng với một số nhân sĩ khác.
>     Đằng sau một ngôi trường thơ mộng từng được mệnh danh là trường “nữ sinh áo tím” (vì trước đó nữ sinh Gia Long nổi tiếng với màu áo tím) là khát vọng về một xã hội tự do, nơi có nam nữ bình quyền – đều có quyền được sống, được hưởng một nền giáo dục và học tập ngang nhau. Ngôi trường tiếp tục tồn tại đến thời Đệ Nhị VNCH.
>     Sau năm 1975, trường đổi tên thành Nguyễn Thị Minh Khai và đào tạo cả nam lẫn nữ.
> (nguồn: chutuananh.com)
> Trường nữ sinh Lê Văn Duyệt


> Cổng trường Lê Văn Duyệt
>      Nếu Gia Long và Trưng Vương là đàn chị thì Lê Văn Duyệt xin được làm em út. Trường hiện ra với dáng dấp năng động của một ngôi trường nữ sinh trẻ. Hồi trước, mình có đọc một status rất ngộ nghĩnh trên Fanpage Sài Gòn Xưa và Nay như thế này: “Tiếc thương cho người em Lê Văn Duyệt không phải vì thua kém đàn chị nhưng tại cái tên… khó đưa vào văn thơ quá nên chẳng thể nào khớp được vào thơ ca của Phạm Duy”.
>     Cũng như Gia Long, trường Lê Văn Duyệt “made in Saigon” chính hiệu nhưng có tiền thân là Trương Tấn Bửu đào tạo cả nam và nữ. Sau khi tách cả nam nữ ra thì trường nữ sinh Lê Văn Duyệt được thành lập tại số 95 đại lộ Lê Văn Duyệt – vốn là một lô đất mới (nay là đường Đinh Tiên Hoàng).
>     Nhiều người thắc mắc tại sao một trường nữ sinh lại mang tên một nam nhân vậy? Có lẽ ngày xưa trường Trương Tấn Bửu tọa lạc gần nơi thờ Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt nên người ta lấy tên ông đặt tên cho trường.
>     Vào năm 1963 thì trường chưa có lớp đệ nhất nên nữ sinh phải chia tay trường sang Trưng Vương học lớp đệ nhất. Nhưng sau đó thì các lớp đệ nhất đã được mở thêm.
>     Sau năm 1975, trường mang tên Võ Thị Sáu đào tạo cả nam lẫn nữ.
> (nguồn: chutuananh.com)
> Trường nữ sinh Đồng Khánh


> Trường Đồng Khánh (Huế) xưa
>     Trường nữ sinh Đồng Khánh là trường dành cho nữ sinh duy nhất ở miền Trung. Trường đặt tại Huế, miền đất của nét chữ tình và sự lãng mạn. Đến nay, mình thỉnh thoảng vẫn ngâm nga vài câu thơ về nữ sinh Đồng Khánh một thời: Cô gái nữ sinh Đồng Khánh kia ơi. Cô đi về đâu tan buổi học rồi. Cô xuôi Đập Đá hay về Nam Giao. Cô về Bến Ngự hay về Đông Ba…
>    Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng ngôi trường này diễn ra vào ngày 15 tháng 7 năm 1917, với sự hiện diện của Vua Khải Định, Toàn Quyền Đông Dương Albert Sarraaut, Khâm Sứ Trung Kỳ J.E. Charles, quyền Khâm Sứ Bắc Kỳ J.Le Galler, các hoàng thân, các vị Thượng Thư và một số quan chức cao cấp người Pháp tại Đông Dương. Trong buổi lễ này, vua Khải Định đã cho đặt xuống móng ngôi trường một số hiện vật để làm kỷ niệm, gồm một cái hộp kim loại chứa 10 đồng Khải Định thông bảo và hai tờ giấy ghi biên bản của buổi lễ bằng tiếng Pháp. Dưới sự điều khiển của nhà thầu Leroy, gần hai năm sau, ngôi trường khánh thành. Đây là ngôi trường nữ đầu tiên và duy nhất dành cho nữ sinh cả 13 tỉnh Trung Kỳ bấy giờ đến học.
>    Theo thời gian, trường được mang nhiều tên gọi khác nhau:
> – Từ 1919-1954, trường mang tên Cao Đẳng Tiểu Học Đồng Khánh.
> – Từ 1955-1975, trường mang tên Trường Nữ Trung Học Đồng Khánh gồm hai cấp: Đệ Nhất cấp và Đệ Nhị cấp.
> – Sau 1975, trường mang tên Trường Cấp III Trưng Trắc.
> – Từ năm 1981 đến nay, trường được đổi tên thành Trường THPT Hai Bà Trưng.
> (nguồn: chutuananh.com)
> Trường nữ sinh Bùi Thị Xuân – Đà Lạt


> Trường nữ trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt) trước 75
>     Dù được thành lập năm 1952 trường chính thức mang tên Bùi Thị Xuân, chỉ đào tạo nữ năm 1957 theo yêu cầu của Bộ Giáo Dục VNCH. Nam sinh được chuyển sang trường Trần Hưng Đạo.
>     Trái với Trưng Vương, Gia Long hay Lê Văn Duyệt nằm ở chốn đô thành náo nhiệt, Bùi Thị Xuân mang vẻ đẹp êm ả của xứ Đà Lạt mộng mơ. Do vậy mỗi khi nhắc đến Bùi Thị Xuân là nhắc đến Đà Lạt, một vùng đất quanh năm sương phủ đẹp đến nên thơ, nơi mà nhạc sĩ Lam Phương đã viết lên khúc Bolero huyền thoại Thành Phố Buồn. Tuy vậy, trường có vị trí khá gần với những vùng chiến sự ác liệt của một thời nên cũng trải qua biết bao thăng trầm, trôi nổi cùng lịch sử.
>     Với những người nghiên cứu về các trường nữ sinh xưa, không ai có thể quên hình ảnh cô hiệu trưởng Lệ Minh – đóa hồng một thời. Cô là một người phụ nữ đẹp, có đủ tài lẫn sắc. Hiện cô đang định cư tại Paris.
> (nguồn: chutuananh.com)
> Trường trung học Marie Curie

> Trường Trung Học Marie Curie là trường duy nhất không đổi trên trong suốt 99 năm qua.
>      Trường trung học Marie Curie là trường duy nhất tại Sài Gòn không thay đổi tên ban đầu có từ thời thuộc Pháp. Trường mở cửa năm 1918 với tên gọi Lycée Marie Curie, chỉ tiếp nhận nữ sinh… Trước năm 1975, nữ sinh mặc đồng phục cả váy và áo dài. Trước 1975, trường dành cho con em người Pháp và một ít nữ sinh con nhà giàu có thế lực ở Sài Gòn, giảng dạy bằng tiếng Pháp.
>     Sau 1975, trường chuyển thành trường trung học phổ thông bán công, cho cả học sinh nam lẫn nữ. Có thời kỳ đây là trường THPT lớn nhất Việt Nam với hơn 5.000 học sinh mỗi năm. Năm 2007, trường được đổi lại thành trường trung học phổ thông công lập, giảm dần sĩ số nhằm tăng phẩm chất giáo dục. Kiến trúc đậm chất Pháp lưu lại trên cổng chào, từng góc cầu thang gỗ, khu vườn với đài phun nước… vẫn còn đến ngày nay. (nguồn: Khánh Ly/VN Express)
> Trường trung học Nguyễn Bá Tòng


> Trường Nguyễn Bá Tòng thập niên 60 (nguồn ảnh: Kỷ yếu 1973 trường Nguyễn Bá Tòng)
>      Năm 1956, trường được thành lập mang tên vị Giám Mục tiên khởi của Công Giáo Việt Nam có sự trợ giúp đặc biệt của cơ quan Caritas Germanica Đức Quốc, cơ quan NCWC, Công Giáo Hoa Kỳ. Trường tọa lạc tại số 73-75 đường Bùi Thị Xuân, quận 1 Sài Gòn.
>     Trường có nhiều cấp lớp từ đệ thất đến đệ nhất đủ các môn A, B, C đặt dưới quyền đìều khiển của 8 vị linh mục cùng với sự giáo dục của 160 vị giáo sư, 30 nhân viên văn phòng (ghi nhận vào năm 1963).
>     Là một trường trung học tư thục nhưng trường được đánh giá cao trong việc giáo dục, uy tín nhất thủ đô. Từ năm 1971: trường chỉ dành riêng cho học sinh nữ.
>     Từ năm 1975, trường trở thành trường trung học phổ thông công lập và trường được đổi tên thành trường THPT Bùi Thị Xuân, dành cho cả học sinh nam và nữ.
> (nguồn: Hòn Ngọc Viễn Đông tổng hợp)
> Trường trung học Saint Paul


> Một góc khu nhà nguyện của St Paul vẫn nguyên vẹn như xưa; ảnh chụp ngày 10/10/2015 (nguồn: HTD)
>     Khi đi ngang ngôi nhà trắng tại số 4 Cường Để, quận 1 (nay là Tôn Đức Thắng) mọi người chỉ biết đây là một nữ tu viện. Tòa nhà này trước kia còn được gọi là “Nhà Trắng”, không phải vì sơn toàn màu trắng như Tòa Bạch Ốc (White House) mà vì ngôi nhà này được xây dựng và làm chủ bởi những nữ tu dòng Saint Paul de Chartres (Thánh Phaolô thành Chartres) “trinh bạch từ linh hồn đến những chiếc áo dòng trắng toát”.
>     Trước năm 1975, trong nhà dòng này có một trường tư thục với các lớp từ mẫu giáo tới tú tài với số lượng 1.600 học sinh (có ký túc xá cho học sinh nội trú). Sau năm 1975, có một thời gian là Trường Sư Phạm Mầm Non. Nếu ai có dịp vào đây sẽ choáng ngợp với không gian rộng rãi, khoáng đãng với kiến trúc ba khối nhà: cô nhi viện, nhà nữ tu ở và khu nhà nguyện. Khu nhà nguyện có thiết kế đặc biệt, nhìn từ trên cao xuống rất giống cây thánh giá, bên trong có thêm nhiều cột đỡ vững chãi, phía trước là một sân cỏ rộng với tượng thánh bổn mạng của dòng Phaolô.
>      Một thiết kế theo nhận định của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ: “Một giáo đường huy hoàng với đường nét thẩm mỹ lối Gothique. Các khu vòm hình liềm cung, đua nhau vượt lên tới 20 thước, không một chút chạm trổ hoa hòe… Làm cho khách tưởng nhớ đến giáo đường Sainte Chapelle… Cảm tưởng nhẹ nhàng vì sự thành công của vị kiến trúc sư làm cho ai vào đó cũng cảm thấy thoát tục”…
>     Theo các tài liệu lịch sử truyền giáo, vào ngày 20/5/1860, các nữ tu dòng Thánh Phaolô gốc ở thành Chartres (Soeurs de Saint Paul de Chartres) từ Hong Kong đặt chân đến Sài Gòn. Họ cùng tạm định cư tại một căn nhà nhỏ vùng chợ cũ cùng các nữ tu dòng kín (đến Sài Gòn năm 1861). Vào tháng 9/1862, mẹ bề trên dòng thánh Phaolô Benjamin khởi công xây cất nhà giám tỉnh tại khu đất Đường Thành (Rue de la Citadelle). Toàn bộ công trình này hoàn thành vào ngày 10/8/1864. Và trong bản thảo viết tay của mẹ Benjamin chỉ ghi lại tên kiến trúc sư là Thầy Học.
>      Lúc ấy các bà phước chẳng biết kiến trúc sư “Thầy Học” là ai. Không biết trước đây đã có tài liệu nào xác định Thầy Học là ai chưa. Riêng cụ Vương Hồng Sển trong quyển Sài Gòn năm xưa in năm 1958 cho biết: “Tương truyền nhà lầu cao lớn nơi đây là do ông Nguyễn Trường Tộ năm xưa đứng coi xây cất”. Vậy Thầy Học hay ông Nguyễn Trường Tộ là người thiết kế, xây cất tòa nhà này? Trong tạp chí Văn Đàn (số 4 năm 1961, Sài Gòn) ông Phạm Đình Khiêm đã công bố nhiều tài liệu trong thư khố tu viện đã chứng minh Thầy Học chính là ông Nguyễn Trường Tộ. (nguồn: Lê Văn Nghĩa/Pháp Luật)
> Trường Couvent Des Oiseaux

> Trường nữ tu Couvent Des Oiseaux – Trường Đức Bà Lâm Viên
>      Trường nữ tu Couvent Des Oiseaux có vị trí khá đặc biệt khi không nằm trên địa hình bằng phẳng, mà là một đồi thông, thuộc số 2 đường Huyền Trân Công Chúa, khá gần thác Cam Ly, Đà Lạt…
>     Về lịch sử của ngôi trường, thì cần nhắc đến người thiếu nữ Nguyễn Hữu Thị Lan, là tiểu thư khuê các trong gia đình đại phú hộ Sài Gòn xưa. Bà vốn là nữ sinh của trường nữ tu dòng Đức Bà tại Paris (Cours des Champs-Élysées, rue de Ponthieu). Sau khi về nước, kết hôn với vị Hoàng Đế cuối cùng của triều Nguyễn là vua Bảo Đại, trở thành bậc mẫu nghi thiên hạ, với tước hiệu Nam Phương Hoàng Hậu, bà đã giúp các vị nữ tu dòng Đức Bà mở trường Công Giáo đầu tiên ở Việt Nam cho các nữ sinh trên đồi Lâm Viên Đà Lạt vào năm 1935. Thuở ban đầu, trường có tên là Notre Dame du Langbian, gọi theo cách thuần Việt là trường Đức Bà Lâm Viên. Cùng với trường Notre-Dame du Rosaire tại Hà Nội (1937) và trường Regina Mundi tại Saigon (1950), thì Notre Dame du Langbian đã đóng góp công lao trong việc giáo dục tri thức. Tuy nhiên, vào thời điểm mới thành lập, trường chỉ phục vụ là nữ sinh có xuất thân từ các gia đình người Pháp, người Việt, người Campuchia và Lào. Mô hình phát triển của trường được nâng lên dần từ vườn trẻ, trường tiểu học rồi chuyển hóa thành nữ sinh trung học.
>     Tên gọi chính thức của trường là Couvent des Oiseaux. Đây cũng là một ngôi trường nổi tiếng chu đáo và nghiêm khắc.
>     Ngày nay, ngôi trường trở thành Trường Phổ Thông Dân Tộc Nội Trú Lâm Đồng.
> Trường Thiên Phước

> Phía ngoài trường Thiên Phước giờ tan học
>       Vào năm 1877, để đáp lại lời mời của Đức Cha Colombert, Giám Mục Địa Phận Đàng Trong, Mẹ Benjamin cho lập một nhà dục anh tại Tân Định và cơ sở này được gọi là “Sainte Enfance de Tân-Định”. Soeur Ignace lúc bấy giờ phụ trách Công Đoàn tiên khởi tại Viễn Đông. Hằng năm bà và các nữ tu đón nhận cả trăm em sơ sinh bị bỏ rơi để săn sóc và nuôi dưỡng chúng. Nhưng có một số trẻ vì quá yếu, bệnh tật không cứu sống được.
>      Vào năm 1881, Cha Sở Eveillard mời các chị em Dòng Thánh Phao-Lồ đến dạy giáo lý cho các em trai và gái của giáo xứ.
>      Ba mươi năm sau, dưới sự huớng dẫn của Soeur Suzanne, nguời phụ trách Công Đoàn, các chị em đảm nhiệm luôn việc giáo dục các thiếu nhi nam nữ tại cơ sở cạnh Công Đoàn. Gia đình trong họ đạo gởi con em đến cơ sở của các nữ tu để vừa học giáo lý vừa học văn hóa theo chương trình của Bộ Giáo Dục. Các con em của họ học đạo chung với các cô nhi, cũng có một số em của họ đạo xin vào nội trú hoặc bán trú tại trường.
>      Trong khoảng năm 1918-1938, song song với sự phát triển của họ đạo, Công Đoàn có những bước tiến đáng ghi nhớ trong thời kỳ Soeur Andréa Amé phụ trách. Lần lượt các lớp Sơ Cấp được mở ra, học sinh đến mỗi ngày một đông…
>     Vào năm 1941, Soeur Marie Rose lúc bấy giờ đang dạy ở Truờng Jeanne d’Arc, Ngã Sáu Chợ Lớn, được mời đến phụ trách Công Đoàn Tân Định thế cho Soeur Amé.
>      Vào khoảng 1946-1948, lúc tình hình Đệ Nhị Thế Chiến lắng dịu, các lớp Nhì và Nhất đuợc mở thêm để bổ túc chương trình tiểu học. Soeur Marie Rose cũng dần dần cho mở thêm các lớp day theo chương trình Pháp. Được một năm thì Soeur phải về Pháp chữa mắt và không trở lại. Soeur Alice de Jésus phụ trách tiếp Công Đoàn.
>     Năm 1950, Soeur Alice de Jésus đã xây cất thêm các lớp học bên cánh phải của cơ sở, lên lầu viện cô nhi, mở ký túc xá cho các nữ sinh ở tỉnh lên học. (còn vài ba câu–ngưng trích vì quá dài -NN)…………………………

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics