FW- ‘Ly Rượu Mừng’… được phép rót!
Kim Vu to:…,me (Nguồn:BBC)
‘Ly Rượu Mừng’ là một trong những ca khúc nổi tiếng nhất của nhạc sĩ Phạm Đình Chương
Sau 41 năm, giai điệu của ca khúc ‘Ly Rượu Mừng’ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương mới được Hà Nội cấp phép hát trở lại trên quê hương.
Hôm 9/1, đại diện công ty Phương Nam Film xác nhận với BBC rằng họ sẽ phát hành ca khúc này trong album cùng tên nhân dịp Tết Bính Thân 2016. Bài hát sẽ do ca sĩ Quang Dũng và Phạm Thu Hà trình bày.
‘Ly Rượu Mừng’ là một trong những sáng tác nổi tiếng nhất của nhạc sĩ Phạm Đình Chương (1929-1991).
Từ thập niên 1950, ca khúc này đã được nhiều thế hệ ca sĩ Việt Nam trình diễn tại Sài Gòn và sau 1975 trên sân khấu của các trung tâm băng đĩa hải ngoại.
‘Ly Rượu Mừng’ được trình bày đầu tiên do ban hợp ca Thăng Long ở Sài Gòn. Ban Thăng Long gồm bốn anh chị em Hoài Trung (Phạm Đình Viêm), Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), Thái Hằng (Phạm Thị Quang Thái) và Thái Thanh (Phạm Thị Băng Thanh).
Đến nay, ca khúc này vẫn vang lên trong những ngày đón xuân của người Việt trên cả thế giới, chỉ riêng trong nước là không ‘được phép’ nghe.
Nhân sự kiện ca khúc Ly rượu mừng được chính thức hát tại Việt Nam, Phương Nam Film dự định làm thêm video clip đi kèm ca khúc để phát hành trên mạng cùng lúc ra mắt album.
Trong album Xuân 2016, Ly rượu mừng được thể hiện qua giọng ca của Quang Dũng và Phạm Thu Hà.
‘Xuân khúc kinh điển’
Về thời điểm sáng tác của Ly rượu mừng, có tài liệu ghi là 1952, có nơi ghi là 1955.
Khi liên hệ với gia đình nhạc sĩ Phạm Đình Chương, Phương Nam Film được gia đình xác nhận thời điểm viết bài năm 1952, dựa theo quyển sách nhạc in tại Mỹ.
Có ý kiến lý giải sở dĩ ‘Ly Rượu Mừng’ trở thành ca khúc bất hủ là vì ca từ không chỉ chuyển tải lời chúc đầu năm mà còn thể hiện ước vọng “ngày mai sáng trời tự do” cho quê hương “máu xương thôi tuôn rơi”.
Trên website cá nhân, nhà thơ Du Tử Lê từng viết: “Tôi muốn gọi ‘Ly Rượu Mừng’ là xuân khúc kinh điển nhất của nền tân nhạc Việt Nam. Tính chất ‘kinh điển’ hiểu theo nghĩa không một thành phần nào của xã hội bị bỏ quên. Và, một cách ý thức, tác giả, đã sắp lại bậc thang giá trị của các thành phần xã hội, với lòng trân trọng, biết ơn của mình.
Tôi nghĩ, đó là một cầu nguyện đời kiếp của dân tộc ta. Như sự hiện diện bất biến của tác giả ca khúc vậy.”
……………………………………………………………………………………..
Rượu bia ngày Tết
Nguồn:RFA-Nhóm phóng viên tường trình từ VN-2016-01-08
Giới trẻ uống bia tại một quán nhậu ngoài trời ở thành phố Hồ Chí Minh tháng 12/2013.
AFP photo
Hầu hết từ Bắc chí Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, đâu đâu cũng bốc mùi rượu bia và inh ỏi tiếng hát lè nhè mỗi khi lễ lạc, Tết nhứt. Chuyện này trở thành một biểu trưng văn hóa Việt Nam.
Bia rượu và tinh thần yêu nước
Một cán bộ lão thành người Đà Nẵng, từng có thâm niên công tác hơn mười năm tại Hà Nội, chia sẻ: “Hồi xưa có rượu gạo, rượu mía, rượu nếp than, nói chung là rượu thông thường. Hồi đó ăn qua qua loa mấy miếng cóc ổi vậy chứ có gì đâu mà ăn, cứ như vậy mà uống. Bây giờ thì nhậu cao cấp rồi, nó uống gấp bảy, tám lần ngày xưa. Rượu gạo thì dân hạ lưu người ta uống thôi chứ dân có tiền thì uống rượu ngoại, trung lưu thì uống bia, rượu Volka. Nói chung bây giờ người ta ăn nhậu cao cấp lắm rồi…!”.
Theo ông này, trong suốt bốn mươi năm kể từ năm 1975, Việt Nam có thể thiếu lương thực, thiếu tự do, thiếu công bằng văn minh nhưng không bao giờ thiếu rượu bia. Bởi rượu bia là một kích thích tố nằm trong chiến lược bảo vệ đảng và giữ sự bình an cho đất nước.
Giải thích thêm cái điều gọi là bảo vệ đảng và giữ sự bình an cho đất nước, vị cán bộ lão thành này nói rằng tuy rượu bia khiến người ta trở nên mất tính người nhưng cũng chính rượu bia giúp cho người ta không bao giờ mất tính đảng. Bởi chỉ có đảng, nhà nước mới đảm bảo đời sống luôn có rượu bia và luôn có những cơn say thấy trời đất một màu rạng rỡ, tươi xanh.
Giải thích thêm, vị này nói rằng trong thời kinh tế tập trung bao cấp, mặc dù thiếu lương thực trầm trọng nhưng người ta vẫn cứ nấu rượu mía, rượu sắn, rượu ngô và số lượng không hạn chế. Đồng hành với rượu sắn, rượu ngô, rượu bắp có các chương trình văn nghệ quần chúng, hát cho dân tôi nghe. Mặc dù đói khổ, thiếu mọi thứ nhưng không bao giờ thiếu tiếng hát cổ động cũng như không bao giờ thiếu rượu.
Đến thời kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hàng loạt các nhãn hiệu rượu bia xuất hiện và ban đầu, rượu bia là thứ hàng hóa đánh thuế rất thấp, mãi đến khi có quá nhiều công ty rượu bia cạnh tranh và hầu như men rượu đã ngấm vào tận chân tơ kẻ tóc của các thế hệ Việt Nam, lúc này mặc dù rượu bia bị đánh thuế tương đối cao nhưng các dịch vụ hớt tóc ôm, massage, karaoke mọc ra đầy rẫy và rượu bia, tiếng hát vẫn cứ bay bổng, làm cho người ta đam mê đeo duổi nhưng trận say và những cơn đắm mình trong dục vọng… Có nhiều thanh niên khi nói chuyện, chỉ cần hỏi về tình hình đất nước thì người ta sẵn sàng trả lời rằng không có thời gian để ăn nhậu thì lấy đâu thời gian để mà quan tâm chuyện khác.
Ghê gớm hơn, có nhiều thanh niên trẻ nhưng khi hỏi về nạn xâm lăng của Trung Quốc, nói chuyện về đường lưỡi bò và những người Trung Quốc xuất hiện khắp nơi trên đất Đà Nẵng thì anh ta ù ù cạc cạc trả lời: “Trung Quốc à, quán nhậu đó ở đâu? Lưỡi bò trộn hay lưỡi bò luộc, bao nhiêu một dĩa…”. Vị này cho rằng cách hỏi như vậy, cho dù cố tình hay vô ý cũng đều cho thấy một điều duy nhất là phần đông các thế hệ Việt Nam bị chìm vào bia rượu và gái gú, hầu như họ không quan tâm đến ngay cả tương lai bản thân họ. Vì không quan tâm đến bản thân nên người ta cũng không quan tâm gì chuyện đất nước, dân tộc.
Vị này nói rằng ông phải nói dài dòng về rượu bia và thế hệ trẻ như vậy để thấy rằng hầu như rượu bia đã làm tràn ngập tâm hồn nhiều thế hệ, làm cho người ta trở nên ngu đần và chỉ biết ăn, uống, phè phỡn. Chỉ trong dịp lễ Tết dương lịch 2016 này, có nhiều nhóm thanh niên, phụ nữ, lão thành tụ tập nhậu nhẹt. Đương nhiên chi phí này một phần do chính quyền địa phương hỗ trợ gọi là xây dựng phong trào và một phần khác do họ tự đóng góp.
Vị cán bộ hưu trí này tỏ ra thất vọng khi nói về thực trạng xã hội đầy rẫy rượu bia, sự vong thân và tính máu lạnh, quay lưng với dân tộc, quốc gia. Ông nói rằng trước đây, mỗi khi xuân về Tết đến, người ta nhấp một ngụm rượu trên môi để cảm nhận hơi ấm và hương vị của một năm mới, một mùa xuân. Còn hiện tại, những dịp năm hết Tết đến, cảm giác lẻ loi, bất lực và mất hết niềm tin vào xã hội ngày càng hiện rõ.
Người Trung Quốc đã thắng
Một vị khác tên Đồng, sống ở quận Cầu Giấy, Hà Nội, chia sẻ thêm: “Thế bây giờ báo đài nó đăng đầy rẫy ra đấy. Nói chung là Trung Quốc đầy đường. Hôm qua tôi đọc báo thấy ở Khánh Hòa mỗi ngày có chín chuyến bay chở Trung Quốc sang. Còn thanh niên mình thì làm gì nào? Uống rượu, chơi gái, đua xe, đánh hội đồng… Đến bao giờ mà tụi Trung Quốc nó sang nó ngồi trên bàn ông bà của người Việt thì lúc đó không biết tụi thanh niên làm gì nữa?!”.
Theo ông Đồng, có thể nói rằng hiện tại, người Trung Quốc đã thắng trong mưu đồ xâm lược của họ bởi sự tiếp tay của nhà nước. Ông Đồng nói rằng một quốc gia có thể bị thua về kinh tế, thất bại về chiến thuật trong chiến tranh nhưng người ta còn dũng khí, còn tinh thần yêu nước nghĩa là con hy vọng. Đằng này, suốt mấy chục năm nay, dựa vào sự mở của của nhà nước Việt Nam, hầu hết men rượu và độc dược của Trung Quốc đã dồn vào Việt Nam, nhanh chóng biến đa số nhân dân Việt Nam thành những thực thể bạc nhược, yếu đuối và thiếu vắng tinh thần yêu nước cũng như nỗi trăn trở về cộng đồng, dân tộc.
Và một khi đa phần nhân dân yếu đuối, bạc nhược thì kẻ xâm lăng cũng chẳng phải tốn kém gì nhiều cho công cuộc xâm lăng, đô hộ của họ. Hiện tại, có thể nói rằng người Trung Quốc đã đạt được mục đích và đã thực hiện được âm mưu của họ. Bởi hiếm thấy một dân tộc nào mà số lượng người mê hát, mê gái và mê nhậu nhiều như dân tộc Việt Nam hiện tại. Người ta mất tự do nhiều thứ, kể cả mất tự do bày tỏ chính kiến nhưng người ta lại rất tự do nhậu nhẹt và tự do chửi thề trên bàn nhậu.
Năm hết Tết đến, những tiếng hô trên bàn nhậu, những dàn karaoke lại thỏa sức bung hết cỡ, dân ăn nhậu gọi là ‘chơi tẹt gas’. Theo ông Đồng, đây cũng là thời điểm mà mọi cá tính của dân tộc thể hiện rõ nét nhất. Nếu nói một cách chính xác, phải nói rằng cá tính dân tộc Việt Nam sau bốn mươi năm không thể không kể đến cá tính rượu đứng và bia ôm.
Hay nói cách khác, những ngày giáp Tết cũng là những ngày mà căn tính của dân tộc hiện ra rõ nét nhất. Một dân tộc luôn tuôn tràn bia rượu nhưng lại khô khan lòng yêu nước cũng như thiếu vắng sự quan tâm đến cộng đồng, xã hội. Có lẽ chính vì vậy mà người Trung Quốc mặc sức tung hoành ngang dọc ở các thành phố lớn Việt Nam.
……………………………………………………………………….
Bài thơ XUÂN VÃN
của Ðiều Ngự Giác Hoàng – Trần Nhân Tông –
Tác giả : Thích Thông Huệ
Nguồn:thuvienhoasen.co – 02/01/2011-Hình : NN sưu tầm
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ, biết rõ đường lối tu hành theo tông chỉ “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” (Xoay lại soi sáng chính mình là phận sự gốc, không cầu bên ngoài mà được). Khi lên ngôi, dù bộn bề trăm việc đối nội và đối ngoại, Ngài vẫn có chỗ sống riêng của mình, tuy ở trong trần mà vẫn vui với Ðạo. Năm 41 tuổi, Ngài nhường ngôi cho con, sau đó xuất gia về núi Yên Tử, lấy hiệu Hương Vân Ðại đầu đà, được tôn xưng là Ðiều Ngự Giác Hoàng. Ngài sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử mang đậm bản sắc dân tộc, trở thành vị Sơ Tổ của dòng Thiền đặc thù Việt Nam . Bài thơ “Xuân vãn” là một trong những bài mượn cảnh mùa xuân, diễn đạt một cách sâu sắc trình độ tâm linh vút cao của Ngài:
XUÂN VÃN
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá Ðông hoàng diện,
Thiền bản, bồ đoàn khán trụy hồng.
Hòa thượng Trúc Lâm dịch:
CUỐI XUÂN
Thuở bé chưa từng rõ sắc không,
Xuân về hoa nở rộn trong lòng.
Chúa Xuân nay bị ta khám phá,
Thiền bản, bồ đoàn, ngắm cánh hồng.
Bài thơ tứ tuyệt ngắn ngủi nhưng bao hàm cả hai giai đoạn đời Ngài: lúc còn bé chưa biết đường tu và khi đã là vị Thiền Sư đạt đạo.
“Thuở bé chưa từng rõ sắc không / Xuân về hoa nở rộn trong lòng”: Thuở bé là lúc còn non tuổi đời, cũng là khi còn ấu thơ về đạo lý. Nhân một ngày xuân đi dạo trong vườn thượng uyển, Thái Tử thấy trăm hoa đua nở tỏa hương ngào ngạt. Chưa thấu hiểu lý Bát Nhã, chưa rõ thể tánh không của các pháp, Thái Tử ngỡ thân tâm cảnh đều thật có. Ý thức chấp ngã chấp pháp mạnh mẽ, nhất là trong điều kiện thuận lợi về vật chất, Ngài làm sao tránh khỏi rộn ràng xao xuyến khi thấy cảnh xuân về? Và đây hầu như là tâm trạng chung của con người, nhất là những ai có tâm hồn nghệ sĩ. Nhà thơ Ðinh Hùng nhìn xuân sang mà nhớ hương người xưa:
Xuân nào như xuân mới?
Hương nào như hương xưa?
Lòng chàng không có tuổi
Duyên chàng se tình cờ.
hay J. Leiba nói thay cô gái tuổi trăng tròn:
Em nhớ năm em lên mười lăm,
Cũng ngày đông cuối sắp sang xuân.
Mừng xuân, em thấy tim hồi hộp,
Nhìn cái xuân sang khác mọi lần.
Tập khí của chúng ta là dính mắc với trần cảnh, loạn động theo các duyên bên ngoài. Từ đó tạo nghiệp, quẩn quanh trong sáu nẻo luân hồi. Ðức Phật dạy, chính sáu căn là đầu mối của phiền não sinnh tử, do tiếp xúc với sáu trần mà khởi tâm phân biệt. Nhưng sáu căn cũng là nguồn gốc của Niết bàn, khi thấy nghe hay biết tất cả các pháp mà vẫn an nhiên tự tại. Thời điểm chợt nhận ra tánh giác thường hằng của chính mình là khoảnh khắc diệu thường, ngàn năm không dễ có. Những bậc đạt đạo dùng rất nhiều mỹ từ tạm đặt tên cho tánh giác sẵn đủ ấy, vì thật sự nó không có tên, cũng không thể dùng ngôn từ diễn tả. Ở đây, Sơ Tổ Ðiều Ngự gọi là Chúa Xuân. “Chúa Xuân nay bị ta khám phá”. Thật ra, Chúa Xuân không lẫn tránh, không giấu mặt, cũng không phải ở đâu xa. Chỉ vì vọng thức che lấp nên không nhận ra tánh giác lúc nào cũng sáng ngời.
Mai Hoa Ni đời Tống viết bài thơ Ngộ đạo như sau:
Tìm Xuân, chẳng thấy bóng xuân sang,
Giày rơm giẫm nát đỉnh mây ngàn.
Trở về chợt ngửi hương mai ngát,
Xuân ở đầu cành đã chứa chan.
(Ðỗ Tùng Bách dịch)
Một đời lặn lội, mòn mỏi những bước chân giẫm nát cỏ cây trên đỉnh núi mây phủ, thế mà vẫn chưa tìm thấy mùa xuân. Chính vì ý tưởng “tìm xuân” nên xuân không thể hiện. Chúa Xuân không ở bên ngoài, không phải là đối tượng của sự tìm cầu, mà chính là mình – con người bất sanh bất diệt xưa nay. Sực tỉnh xoay trở về chính mình, ta mới nhận ra, quả thật xuân đang trùm khắp vạn hữu, mai đang tỏa ngát mùi hương.!
Sơ Tổ của chúng ta không những đã trở về, đã khám phá Chúa Xuân, Ngài còn trọn vẹn sống cùng mùa Xuân miên viễn:
“Thiền bản, bồ đoàn, ngắm cánh hồng”.
Thiền bản là chiếc chõng hay giường nhỏ, bồ đoàn là chiếc gối tròn để ngồi. Ðây là hai dụng cụ sử dụng khi tọa thiền. Giường hay chõng thiền còn ám chỉ chân tánh hay bản tâm của mỗi người. Ngồi trên giường Thiền nghĩa là hằng sống cùng bản tâm sẵn đủ. Bản tâm thường tịch nhưng thường tri, luôn lặng lẽ mà luôn chiếu sáng. Ðịnh của bản tâm không trụ không xả, không nhập không xuất nên là thường định, đại định. Tinh thần Bồ tát Ðại thừa không bỏ huyễn cầu chơn, không bỏ mê về ngộ, không bỏ trần gian thủ chứng Niết bàn. Trong các cảnh vô thường sinh diệt, các bậc đạt đạo nhận ra và sống bằng thể tánh chân thường bất sinh, nên có cái nhìn thẩm thấu vào bản chất của các pháp. Do vậy, các Ngài tự tại anh nhiên trước sự biến đổi của vũ trụ vạn hữu, nên nói “ngồi trên giường Thiền ngắm từng cánh hoa rụng trong một chiều xuân vãn”.
Cùng một cảnh xuân nhưng lúc mê thì tâm loạn động, dính mắc theo cảnh, khi ngộ thì an nhiên nhìn mọi sự đổi dời. Xuân đời đến rồi đi, hoa theo xuân nở rồi tàn, nhưng Chúa Xuân mãi hiện hữu, siêu vượt thời – không. Mùa Xuân miên viễn ấy không ở đâu xa, không từ bên ngoài đến, mà ở ngay đương xứ – tại đây và bây giờ. Cầu chúc tất cả chúng ta, nhân mùa xuân đến, nhận ra Chúa – Xuân – tự – tâm của chính mình, đồng thời chan rải hương xuân đến khắp mọi người.
Mùa Xuân Kỷ Sửu – 2009
Thiền thất Viên Giác
………………………………………………..
Nguồn : nguyenhungquoc blog
BÁO TẾT VÀ VĂN HÓA TẾT
NGUYỄN HƯNG QUỐC
Từ thập niên 1930, bắt đầu với sáng kiến của nhóm Tự Lực Văn Đoàn trên báo Phong Hóa, báo Tết trở thành một hiện tượng nổi bật trong sinh hoạt mừng xuân của người Việt Nam. Bên cạnh những “thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ”. Bên cạnh những “cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”. Bên cạnh? Không phải. So với các món Tết cổ truyền vừa kể, vị thế của Báo Tết quan trọng hơn nhiều. Ngày nay, cây nêu, câu đối đỏ hay dưa hành chỉ còn là những kỷ niệm, có khi thật xa vời, hun hút nằm ngoài trí nhớ của nhiều người Việt Nam. Riêng pháo thì, từ nhiều năm rồi, bị cấm; và thịt mỡ thì dần dần, cùng với đà phát triển của kinh tế, không còn là một giá trị điển hình cho ngày Tết nữa. Trong khi đó báo Tết không những không suy giảm mà càng ngày càng phát triển, từ trong nước ra đến hải ngoại. Đâu đâu cũng có báo Tết. Báo chuyên nghiệp ra số Tết đã đành. Ngay cả các đặc san của các Hội đoàn cũng chọn dịp Tết để ra báo như để cố góp vào cái rừng báo Tết vốn đã rậm rạp của người Việt bằng chút hương hoa địa phương.
Tôi không biết ở các nước khác thế nào, chứ riêng tại các quốc gia nói tiếng Anh, rõ ràng là người ta không có thói quen làm báo Tết. Ngay cả đầu năm 2000 và đầu năm 2001, thời điểm kết thúc và mở đầu không những của một thế kỷ mà còn của cả một thiên niên kỷ, các tờ báo lớn tại Mỹ, Anh, Úc và Canada… cũng chỉ phát hành những phụ trương mong mỏng tổng kết những sự kiện và những nhân vật nổi bật nhất trong một số lãnh vực nào đó mà thôi. Hoàn toàn không có những số báo Tết hay những giai phẩm xuân như ở ta. Bởi vậy, trong chừng mực nào đó, một cách dè dặt, chúng ta cũng có thể nói báo Tết là một hiện tượng khá đặc thù của Việt Nam.
Cái đặc thù ấy không chừng xuất phát từ tham vọng làm… văn chương của những người làm báo. Nên lưu ý là báo Tết thường gắn liền với các nhật báo hoặc tuần báo. Các tạp chí ra hàng tháng hay nhiều tháng, nếu có số Tết, cũng chỉ là một cách gọi tên cho tiện và cho… vui; thực chất chúng cũng chỉ là một thứ giai phẩm khá bình thường, may lắm, thoáng chút hương xuân ở đôi bài tổng luận hay phỏng vấn. Những số báo Tết tiêu biểu nhất thường được tìm thấy ở những người làm báo thực sự. Có thể xem báo Tết như một thứ đại yến của những tờ báo tin tức và thời sự: đó là dịp để những người quanh năm tất bật với những tin vắn tin dài có thể ngồi xuống làm… thứ văn chương mà họ tin là nghiêm túc. Với bìa cứng và được bấm gáy cẩn thận, số báo Tết được xem như một sự hóa thân: từ báo, nó trở thành tạp chí; từ tin tức, nó trở thành nghệ thuật; từ giải trí, nó trở thành văn chương; từ việc đáp ứng những nhu cầu bức thiết nhưng rất phù du hàng ngày, nó trở thành một thứ tác phẩm có thể được lưu giữ lâu dài trên các giá sách. Những sự hóa thân ấy có tác động thăng cấp về tâm lý: với các số báo Tết, một nhà báo thích thú với chữ nghĩa có thể tự cảm thấy mình làm một nhà văn hay một nhà thơ, một nhà báo khác say mê bình luận tin tức có thể tự cảm thấy mình là một nhà… bình luận chiến lược, hoặc thậm chí, một nhà chiến lược.
Tuy nhiên, trên thực tế, ý nghĩa văn chương và nghệ thuật của các số báo Tết ấy rất mong manh. Trước đây, về phương diện nghệ thuật, các số báo Tết có một đặc điểm nổi bật là in màu nên trông rực rỡ hơn hẳn các số báo thường cũng được in màu, ít nhất là ở cái bìa, thì vẻ rực rỡ không còn là một tín hiệu của Tết nữa. Đó là chưa kể, loại bỏ yếu tố màu sắc ra, hình ảnh in trên các bìa báo Tết thường khá giống nhau: hoặc hình thiếu nữ hoặc hình ông bà cụ già với cháu nhỏ trong y phục cổ truyền, hoặc hình một vật gì đó gắn liền với ngày Tết: hoa, cây nêu, pháo, bánh chưng v.v.. đại khái thế. Rất ít có sự thay đổi. Mà hình như người ta cũng ngại thay đổi: Tết đồng nghĩa với truyền thống.
Văn chương của Báo Tết cũng thế. Cũng ngại thay đổi. Ngại thay đổi từ đề tài trở đi: Bài vở khác nhau, các cây bút cộng tác khác nhau, nhưng hầu như tờ báo Tết thực sự là báo Tết nào cũng có những phần mục y như nhau. Bao giờ cũng có phần tổng kết tình hình trong năm. Nghiêm túc thì người ta viết bài tổng kết ấy dưới hình thức tiểu luận. Nặng tinh thần giải trí thì người ta viết dưới hình thức sớ Táo Quân. Nhiều báo còn cụ thể hóa tình hình trong năm bằng cách chọn ra những thành tích xuất sắc và những gương mặt tiêu biểu nhất để biểu dương. Hơn nữa, người ta còn đi xa hơn trong việc tổng kết bằng cách nhìn lại toàn bộ những năm mang cùng tên con giáp trong suốt lịch sử, từ đó, có những bài như “Những năm Dần trong lịch sử ”, “Những năm Thìn trong lịch sử ” v.v… Đi kèm với những bài như thế bao giờ cũng có những bài viết khác tìm hiểu những đặc điểm của những con vật được chọn đặt tên cho năm: Chuột, trâu, cọp, mèo, rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ… Với những đề tài như thế, người ta không thể tránh khỏi sự trùng lặp trong nội dung. Gắn liền với một con vật nào đó thường chỉ có một số chuyện nhất định: Con cọp trong ca dao, tục ngữ; con cọp trong hội họa; con cọp trong văn chương; con cọp trong thế giới sinh vật học v.v… Một số không ít những bài viết ấy sẽ được in lại hoặc xào nấu lại trong một chu kỳ cố định: 12 năm. Bởi vậy, tuy năm nào chúng ta cũng có hằng trăm tờ báo Tết, những giai phẩm xuân dày cộm và lộng lẫy, số lượng những tác phẩm về Tết có giá trị, cả trong lãnh vực sáng tác lẫn lãnh vực nghiên cứu, rất hiếm, hiếm một cách rất đáng kinh ngạc. Khi nào cần tìm một bài thơ thật hay về mùa xuân ư? Thì chúng ta lại phải quay về với Vũ Đình Liên, với Đoàn Văn Cừ, với Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên những năm trước 45 xa xôi. Khi nào cần tìm một số công trình nghiên cứu nghiêm túc và khả tín về phong tục Tết nhất ư? Thì chúng ta lại phải quay về quá khứ, với Toan Ánh hay Vương Hồng Sển trước năm 1975, hay có khi xa hơn nữa, tận thời Phan Kế Bình, trước năm 1930.
Biết thế, nhưng người Việt Nam nói chung vẫn cứ yêu báo Tết. Giới làm báo yêu báo Tết: Tết, không có số báo đặc biệt, họ cảm thấy như thiếu thiếu một cái gì. Giống như những người bình thường thiếu một chậu hoa, một gói bánh chưng hay một đòn bánh tét. Giới viết văn và làm thơ cũng yêu báo Tết: rất nhiều người quanh năm không viết lách được gì cũng cố góp mặt trên trang báo Tết một bài thơ hay một tiểu phẩm gì đó. Nhiều người chuẩn bị cho báo Tết khá kỹ: ngay từ giữa năm, lúc, trừ Úc, đang còn trong mùa hạ hoặc mới vừa chớm thu, họ đã nắn nót những bài thơ nặng trĩu nỗi hoài hương và hoài cổ trong không khí giao thừa lạnh lẽo ở xứ lạ quê người. Một số người cẩn thận và cũng ngây thơ hơn, ghi chú dưới bài thơ dòng chữ đầy tính… hư cấu, kiểu “Viết giữa đêm giao thừa…2010”, trong khi trên thực tế, bài thơ ấy đã được làm và gửi đến tòa soạn từ giữa năm 2009. Độc giả, cầm đọc bài thơ với câu ghi chú như thế cả một, hai tháng trước đêm giao thừa, cũng không lấy làm gì khó chịu. Người ta dễ dàng xem đó như một thứ nghi thức. Thật ra, với họ, ngay chính việc mua tờ báo Tết cũng gần như một nghi thức: tờ báo, giống như một gói mứt, mua, chưa chắc đã ăn, nhưng không mua thì không an tâm. Mua báo Tết, có khi chỉ liếc sơ qua, nhưng nếu không mua, cứ e hương vị ngày Tết cứ nhạt đi một chút.
Thành ra, có thể nói, với người Việt nam, báo Tết là một hiện tượng văn hóa.
Đó là thứ văn hóa hội hè. Đặc điểm đầu tiên của văn hóa hội hè là tính chất tập thể, ở đó, ngay sự hiện diện đã là một ý nghĩa. Không cần biết ai hiện diện, chỉ cần biết là nhiều người hiện diện. Bởi vậy số báo Tết nào người ta cũng có lôi kéo thật nhiều người tham gia. Nếu không tham gia được với tư cách tác giả thì cũng tham gia với tư cách những người được phỏng vấn. Mà các cuộc phỏng vấn chỉ cần đa dạng chứ không cần chuyên sâu. Ở đây chất lượng không quan trọng: Điều quan trọng nhất là mỗi người một giọng để tờ báo có không khí đình đám.
Đình đám thì phải… vui. Hầu hết những người làm Báo Tết đều ý thức rất rõ là tờ báo của mình được đọc trong không khí Tết, lúc mọi người chỉ muốn tận hưởng những gì thảnh thơi và may mắn nhất. Do đó, người ta thường né tránh những đề tài và những phong cách quá nặng nề. Hí họa, thơ, truyện cũng như nhưng bài phóng sự hài hước và phóng sự ngắn được đặc biệt ưa chuộng.
Nhưng đặc điểm nổi bật nhất ở các tờ báo Tết chính là nền văn hóa nhìn lại. Báo Tết, thực sự là báo Tết, trong cảm quan của cả người viết lẫn người đọc, bao giờ cũng là một sự nhìn lại, hoặc chủ yếu là một sự nhìn lại. Nhìn lại một năm. Nhìn lại một giáp. Nhìn lại một thế kỷ. Nhìn lại những thành công và những thất bại của một đất nước hoặc một lãnh vực nào đó. Nhìn lại những nếp cũ, những tục cũ. Nhìn lại những vang bóng một thời. Nhìn lại. Số báo Tết nào cũng thường nặng trĩu quá khứ và cũng man mác tâm sự u hoài.
Thì cũng hay thôi. Mỗi số Tết là một dịp ôn bài. Ôn tập thể. Và thú vị. Như nhấp một hớp trà hay nhâm nhi một miếng mứt. Có lẽ phần lớn những kiến thức của chúng ta về phong tục tập quán của dân tộc cũng như những dấu mốc quan trọng trong lịch sử đất nước nếu không đến từ, thì cũng được củng cố bởi, các dịp ôn bài như thế. Không có chúng, khó có thể tưởng tượng là đến hơn nửa cuộc đời, chúng ta vẫn nhớ đến những sự tích bánh chưng bánh dày hay những chuyện ngồ ngộ liên quan đến các giống vật được chọn đặt tên cho từng năm như chó, mèo, ngựa, khỉ, rắn, rồng v.v.. Bài thơ “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên được nhiều người ghi nhớ hơn nhiều bài thơ khác có lẽ một phần lớn cũng là nhờ báo Tết. Tên tuổi của Đoàn Văn Cừ, một nhà thơ thời 1930-45, tác giả cuả một số bài thơ về Tết nổi tiếng, còn lại mãi có lẽ chủ yếu cũng nhờ báo Tết.
Những việc “ôn bài” dưới hình thức báo Tết như thế không phải chỉ có ích lợi giúp bồi bổ kiến thức của mọi người. Quan trọng hơn, chúng còn giúp tạo nên một thứ ký ức tập thể chung cho cả dân tộc, khiến cho người Việt Nam thuộc bất cứ địa phương hay bất cứ thế hệ nào cũng đều có một số hình ảnh khá giống nhau và một số khái niệm khá giống nhau về đất nước. Chính những ký ức tập thể như thế đã góp phần hình thành nên những ý niệm về cái gọi là bản sắc văn hóa; và bản sắc văn hóa, đến lượt nó, lại điều kiện hóa cách suy nghĩ cũng như cách hàn xử của từng cá nhân.
Có thể nói, ở Việt Nam, ký ức có vai trò quan trọng hơn hẳn lịch sử. Thật ra, ở một góc độ nào đó, ký ức và lịch sử là một: lịch sử là thứ ký ức tập thể đã được gạn lọc và lưu giữ bằng một phương tiện vật lý nằm ngoài bộ nhớ của từng cá nhân. Đó là thứ ký ức được ghi lại. Lịch sử được viết theo phong cách hàn lâm (academic history), nói theo Lutz Niethammer, là thứ ký ức tập thể trong một thời đại khoa học(1). Tuy nhiên, chính việc ghi lại ấy đã làm cho lịch sử ít nhiều khác biệt với ký ức. Được ghi chép tức là được gạn lọc: lịch sử nào cũng ít nhiều chịu sự chi phối của các thế lực khác nhau trong xã hội, chủ yếu là các thế lực đang nắm vai trò thống trị, nói như ai đó, trong một câu nói đã thành châm ngôn: lịch sử được viết bởi những kẻ chiến thắng. Hơn nữa, được ghi chép, lịch sử, một mặt, sẽ còn lại với thời gian, nhưng mặt khác, lại bị tách ra khỏi sự sống vẫn còn đang tiếp tục vận động. Những yếu tố này làm cho lịch sử trở thành một cái gì bất toàn và đầy nghi vấn. Theo Maurice Halbwachs, trong khi ký ức tập thể về quá khứ được chia sẻ trong cả cộng đồng, lịch sử chỉ là kết quả của những công trình nghiên cứu dành cho một thiểu số; trong khi ký ức tập thể vô cùng đa dạng, lịch sử chỉ có một (2). Nhưng cũng từ hiện tượng được ghi chép, lịch sử có một đặc điểm rất tích cực: được ghi chép là được có cơ hội xác minh và bổ sung, nhờ thế, có nhiều triển vọng để gần với sự thực hơn là những ký ức được lưu giữ trong từng cá nhân riêng lẻ và đầy chủ quan. Từ khoảng giữa thập niên 1970 trở lại đây, giới nghiên cứu không còn cố gắng tìm cách đối lập ký ức và lịch sử nữa mà họ xem ký ức như một hình thức bổ sung cho lịch sử. Bổ sung ngay trong ngành sử học: bên cạnh khái niệm lịch sử thành văn quen thuộc, xuất hiện khái niệm lịch sử truyền khẩu (oral history). Bổ sung trong lãnh vực xã hội, chính trị và văn hóa: từ những ký ức tập thể của dân chúng, giới nghiên cứu có thể khám phá ra cách thức con người diễn dịch và nhào nặn lại quá khứ, cách thức quá khứ tác động lên hiện tại và phần nào, cả tương lai nữa.
Bổ sung. Dù được chú ý đến mấy, ký ức cũng chỉ đóng vai trò bổ sung cho lịch sử mà thôi. Nó không thể thay thế lịch sử. Lịch sử có tính thiện vị? Đồng ý. Nhưng ký ức, dù là ký ức tập thể, cũng không công bình hơn chút nào. Đằng sau, có khi xa lắm đằng sau hành động nhớ và quên của một cộng đồng bao giờ cũng tiềm tàng một thái độ chính trị nhất định: người ta thường chỉ nhớ những gì họ muốn nhớ và quên những gì họ muốn quên. Hơn nữa, hình thức thành văn của lịch sử là điều kiện để phát triển tầm nhìn có tính tổng hợp và khái quát: Những khái niệm trừu tượng như phong kiến, tư bản, cộng sản, cách mạng, dân chủ, quân chủ, đa nguyên v.v… chỉ có thể ra đời trên cơ sở của lịch sử. Ký ức, ngược lại, chỉ làm người ta quanh quẩn mãi trong những cái cụ thể gần gũi và nhí nhách.
Ký ức tập thể, muốn tồn tại lâu dài, phải gắn liền với các câu chuyện kể. Một nền văn hóa được xây dựng chủ yến trên nền tảng của ký ức nhất thiết là một nền văn hóa mang tính tự sự (narrative culture) (3). Văn hóa Việt Nam, cho đến nay, là một nền văn hóa như thế. Lịch sử, bất kể là lịch sử gì, với chúng ta, chỉ là một chuỗi chuyện kể liên miên theo trình tự thời gian. Sáng tác, bất cứ thuộc thể loại gì, từ văn xuôi đến văn vần, từ một thiên tiểu thuyết đến một bài thơ, với chúng ta, cũng là một cách kể chuyện, hoặc những câu chuyện đầy biến cố liên quan đến đời sống chính trị, xã hội của các nhân vật, hoặc những câu chuyện ngăn ngắn, nho nhỏ, liên quan đến đời sống tâm tình, với những ước mơ và những thất vọng, những nhớ nhung và những khắc khoải, những đắng cay và những giận hờn… của chính người cầm bút. Phê bình, với chúng ta, cũng lại là một cách kể chuyện: kể lại câu chuyện xảy ra trong tác phẩm mình phê bình hoặc kể lại những gì mình cảm, mình nghĩ, mình liên tưởng nảy sinh từ tác phẩm ấy. Cả đến văn lý thuyết, với chúng ta, ở một mức độ nào đó, cũng là một cách kể chuyện: kể về một vấn đề, về những tranh luận chung quanh một vấn đề, về những chi tiết nhằm minh họa cho vấn đề ấy. Ở đó có rất ít những sự phân tích. Càng ít hơn nữa những cách nhìn có sức tổng hợp với những khái niệm trừu tượng và mang tính khái quát cao.
Đã đành dân tộc nào vào thuở sơ khai khi chưa có chữ viết hoặc chưa có điều kiện in ấn cũng đều yêu chuộng hình thức chuyện kể. Tuy nhiên, hình như ở Việt Nam, lòng yêu chuộng ấy sâu đậm một cách khá đặc biệt. Sâu đậm đến độ, với người Việt Nam, quá khứ không có gì khác hơn ngoài các câu chuyện kể. Chúng ta phá hoại không thương tiếc các di tích lịch sử; chúng ta chỉ yêu các câu chuyện kể. Chúng ta kể đi kể lại không biết mệt mỏi từ chuyện Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đến Trọng Thủy phản bội Mỵ Nương, chuyện Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc, chuyện Trưng Trắc trả thù chồng, Chuyện Triệu Trinh Nương vú dài ba thước, chuyện Trần Quốc Toản bóp nát trái cam trong tay v.v…
Không phải không có khía cạnh tích cực: Theo tôi, chính việc chia sẻ niềm tin và sự say mê đối với các câu chuyện kể ấy đã góp phần tạo nên sự thống nhất của dân tộc Việt Nam, để từ Nam chí Bắc, từ trong nước ra đến hải ngoại, từ già đến trẻ, từ trí thức đến bình dân, ở đâu người Việt Nam cũng có một sự tưởng tượng chung, từ đó, ngỡ chứng như có một quá khứ chung, một cội nguồn chung. Nói một cách khái quát hơn, cái gọi là dân tộc Việt Nam, đặc biệt là cái gọi là dân tộc tính của Việt Nam, thực chất là một số câu chuyện kể chung.
Đẩy vấn đề lên một tầm khái quát như vậy, chúng ta gặp một số lý thuyết gia hậu hiện đại, những người xem những khái niệm hết sức căn bản như tổ quốc, sắc tộc, bản sắc v.v… không phải là những gì có sẵn mà chỉ là những gì được tạo ra, hơn nữa, không ngừng được tái tạo qua thời gian. Hay, nói như Werner Sollars, sắc tộc chỉ là một chuỗi những sự hư cấu có tính tập thể (a set of collective fictions) (4); nói như Benedict Anderson, tổ quốc chỉ là một cộng đồng tưởng tượng (imagined community)(5); và như Homi Bhabha, tổ quốc là những gì được kể lại(6).
Những gì được kể lại ấy hẳn đã thuộc về quá khứ. Tuy nhiên, qua việc kể, những di tích đầy huyễn tưởng của quá khứ ấy lại tác động lên việc hình thành những giá trị văn hóa làm mẫu số chung trong xã hội để căn cứ theo đó, mọi người đánh giá các hiện tượng chung quanh, và chọn lựa cho mình những cung cách hành xử được xem là đúng đắn nhất. Nói cách khác, cái được kể sẽ dần dần được nội tâm hóa và đến một lúc nào đó, trở thành khuôn thức để hình thành nhân cách và tính cách của chúng ta: từ nhưng người kể chuyện, chúng ta bị biến thành những người được kể, thành các nhân vật. Đây mới chính là điều đáng ngại: ở tận đầu thế kỷ 21, thật chẳng có gì vui khi cứ phải tiếp tục làm những nhân vật dễ thương nhưng rất đơn giản, đơn giản đến độ ngây ngô, như trong các câu chuyện cổ tích ngày nào.
Chính vì vậy, mỗi lần cầm tổ báo Tết, tôi vừa mừng vừa cảm thấy có cái gì như là ngài ngại.
Nguyễn Hưng Quốc
Chú thích :
1.Dẫn theo Cornelus Holtprf trong bài “History & Memory”
2.Như trên.
3.Về khái niệm “Văn hóa tự sự ” hay “kiến thức tự sự ”, có thể xem thêm bài “How Cultural Anthropology Contributes to Culture: The Scientific Method in Late Twentieth Century Cultural Anthropology” của James W. Dow trên website: www.oakland.edu/~dow
4.Xem Werner Sollor (biên tập) (1989), In the Invention of Ethnicity, New York: Oxford University Press, tr. Ix-xx.
5.Xem Benedict Anderson (1991), Imagined Communities: Reflectins on The Origins and Spread of Nationalism, New York: Verso
6.Xem Homi K. Bhabha (1994), The Location of Culture, London: Routledge.
……………………………………………………………………………….