1.Nhà thơ Như Quỳnh de Prelle-kỳ chót (DTL)2.NGUYỄN LỆ UYÊN-Nhớ Phạm Ngọc Lư(dtl.com)

Tháp ‘babel’ trong Kinh Thánh và thơ Như Quỳnh de Prelle

Du Tử Lê/Người Việt

Nguồn:nguoiviet.com- June 16, 2017


Tập thơ “Song Tử Thơ” của Như Quỳnh de Prelle. (Hình: Du Tử Lê cung cấp)

Tháp ‘babel’ trong Kinh Thánh và thơ Như Quỳnh de PrellePhần thứ ba của thơ Như Quỳnh de Prelle, tác giả chọn “Babel” làm tựa đề chung cho phần này, 37 bài.

Chỉ có một bài, tôi nghĩ có thể liên quan gần xa tới chủ đề “Babel.” Ðó là bài “Babel.” Nội dung đó nguyên văn như sau:

“Thủ tướng Anh Quốc rời chính trường sau sự kiện Brexit trong lịch sử nước Anh và liên hiệp của EU, nước Anh sẽ lùi hay tiến trong tương lai, EU cùng nhau đứng lên mạnh mẽ cải tổ và thống nhất.”

“Trong một diễn biến khác, đội tuyển bóng đá Bồ Ðào Nha vô địch bóng đá Châu Âu 2016.”

“Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama buồn bã với những cái chết của cảnh sát bị tấn công bởi những tay súng.”

“Tổng thống Ðại Pháp mỗi tháng chi trả gần 10 nghìn euro cho việc cắt mái tóc hói của ông làm giới truyền thông tốn giấy mực.”

“Khủng bố vào đêm Quốc Khánh Pháp tại Nice, gần 80 người chết và nhiều người bị thương, nỗi buồn của mùa Hè.”

“Cuộc chạy đua của người đàn bà trong tương lai lần đầu tiên là tổng thống nước Mỹ và Trump không ngừng hào hứng và sinh động.”

“Philippines thắng Trung Hoa lục địa đường biên giới trên biển, lưỡi bò thật khó gặm, Việt Nam có muốn giành Hoàng Sa Trường Sa thật sự không, chỉ có giới chính quyền rõ nhất, nhân dân cứ gào thét dân chủ và đấu tranh cô độc, nhà tù và nhà tù/cá chết từ Vũng Áng và môi trường biển miền Trung trong cơn phẫn nộ của dân chúng, 500 triệu đô la đền bù là thực hay hư ảo để xoa dịu lòng người đã bị đánh mất niềm tin vào chính quyền nhà nước đang thực thi cai trị.”

“Thổ Nhĩ Kỳ dùng quân đội đảo chính chính phủ, hàng nghìn người bị bắt…”

Rồi tác giả đột ngột chuyển qua lãnh vực tình yêu cá nhân:

“Anh không thích thi ca
Anh không thích sinh nhật
Viết lách chả ăn thua gì
Anh chỉ muốn trái tim thuộc về…
Em… đừng đi”
“Anh phán xét em với hệ quy chiếu đạo đức và đạo hạnh của người đàn bà toàn thế giới đóng cửa trước mọi con đường sống còn của em mịt mùng và tăm tối.”
“Sự vô nghĩa khi đánh mất tình yêu và niềm tin, thế giới đổ vỡ như thành Babylon.”

“Các cuộc thảm sát, khủng bố, chính trường bất ổn… thế kỷ 21 như đang thách thức loài người trên những hệ giá trị và sự bảo tồn sự sống, hệ thống quyền lực.”
Như thế, “Babel” của Như Quỳnh de Prelle không một chút liên hệ gần, xa tới Tháp Babel theo Kinh Thánh, mà Wikipedia-Mở đã ghi nhận, vắn tắt như sau:

“Tháp Babe trong sách Sáng Thế Ký, là một ngọn tháp to lớn được xây dựng ở thành phố Babylon, một thành phố quốc tế điển hình bởi sự hỗn tạp giữa các ngôn ngữ, cũng được gọi là ‘sự bắt đầu’ của vương quốc Nimrod. Theo kinh thánh, một nhóm người là các thế hệ tiếp theo sau đại hồng thủy, nói cùng một thứ ngôn ngữ và di trú từ phía Ðông, đã tham gia vào việc xây dựng. Những con người đó quyết định rằng thành phố của họ nên có một cái tháp thật to lớn đến mức đỉnh của nó chạm đến thiên đường.”

“Tuy nhiên, Tháp Babel không được xây dựng để thờ phượng Ðức Chúa Trời, nhưng là để thể hiện sự huy hoàng của con người, để ‘đặt tên’ cho người xây tháp. ‘Sau đó họ nói, ‘Ðến đây, chúng ta xây dựng một thành phố của riêng chúng ta (…)” (Genesis 11:4). Vì thế, khi “Ðức Giê-hô-va ngự xuống, đã phán rằng: ‘…Thôi! chúng ta hãy xuống, làm lộn xộn tiếng nói của chúng nó, cho họ nghe không được tiếng nói của người nầy với người kia.’ Rồi, từ đó Ðức Giê-hô-va làm cho loài người tản ra khắp trên mặt đất, và họ thôi công việc xây cất thành (…) (Kinh Thánh, Sáng Thế Ký 11:9).”

***

Trong khi đó, “Babel” của Như Quỳnh lại là bản liệt kê những biến động lớn, bé, ý nghĩa và vô nghĩa của thế giới đa cực hôm nay. Những chuyện lặt vặt hằng ngày của các chính khách…

Tôi thực sự không hiểu dụng ý của Như Quỳnh, khi viết “Babel!”

Như khá nhiều những người viết trẻ sau này, xu hướng của họ, dường không hề quan tâm tới lãnh vực tu từ học/rhetoric. Họ cũng không quan tâm tới lãnh vực mỹ học/phonics mà, chỉ chăm chú vào nỗ lực chuyển tải những “thông điệp” của họ, cho thế hệ của họ (?). (*)

Họ cho người đọc cảm tưởng, có những lúc họ “nhập đồng,” mê sảng với những điều mà họ cho đó là “thông điệp?” Hay tiếng nói, phản ảnh những ưu tư, dằn vặt của thế hệ họ (?).

Cũng thế, Như Quỳnh, trong bài thơ “Thư Gửi Jesu,” đã “thân mật hóa” khi gọi Chúa Ngôi Hai, bằng nhân xưng đại danh tự “chàng”:

“Cơ thể của chàng treo trên cây thập giá
rồi tháo xuống
nước mắt và máu tràn ngập cùng mồ hôi
người và người cùng khóc
Jesu chàng đã không chết và không bao giờ chết”

(…)

“Thế kỷ này, Jesu không được nhìn thấy những bất hạnh khác
nhưng chàng đã nhìn ra những đắng cay ấy, những tội đồ ấy
và những kẻ trao cho chàng cái chết
chúng vẫn muốn đóng đinh loài người vào những bức tường trên những định kiến mù lòa và những dùi cui song sắt”
“Jesu ơi, Jesu, chàng có nghe thấu chăng”

Tôi không nói tới sự khó chịu, hay bất mãn của những Ky Tô Hữu (vì thi sĩ khác người thường ở chỗ họ có thể nhân cách hóa, phàm tục hóa bất cứ một nhân vật tôn giáo linh thiêng nào)… Nhưng sự thân mật hóa Chúa Ki Tô, về phương diện tu từ học của Như Quỳnh, tôi cho là không thích hợp. Cũng không nhờ thế mà bài thơ hay tác giả được nâng cấp, lên một trình độ cao hơn!

Tuy nhiên, bên cạnh đó, Như Quỳnh de Prelle cũng có những bài thơ nhẹ nhàng, đằm thắm chia sẻ, mang nhiều tính nhân bản, như bài “Tháng 11 Năm 16”:

“Nỗi buồn tháng 11 u ám
đàn chim ngưng trên mái nhà đầy khói
lò sưởi có đủ ấm cho mùa giá lạnh năm nay
loài người sẽ đi về đâu sau tháng 11 trôi qua
chào một năm khác
một năm khác”

“thở dài trong hy vọng và cần hy vọng
cầu nguyện cho thế giới hòa bình
cho những giá trị không thể vỡ trong một đêm ngắn dài
cầu nguyện tháng 11
cầu nguyện
niệm sinh
mùa tạ ơn đang đến
cầu nguyện cầu nguyện
tháng 11 trôi”

Hoặc bài “Nhớ Metro Số 1”:

“Sân ga Alma mỗi ngày dịch chuyển những chuyến tàu vào trung tâm
những gương mặt buổi sáng vội vàng
những người đàn bà da đen cùng bọn trẻ đến trường
những thiếu nữ quấn khăn trên đầu với những trang phục áo dài sang trọng che hết đôi giày xinh xắn
những điệu nhạc của ngày thường
một vài gương mặt thân quen của những người đàn ông không gia đình”

“Mỗi mùa trôi qua, metro số 1 chở bao nhiêu nhân gian, bao nhiêu số phận…”
(Trích “Nhớ Metro Số 1”)

Hoặc:

“đường vào Châu Âu
qua các biên giới
sự mừng vui
nước mắt
mặc cảm tự ti
cho tờ giấy thông hành
để được tiếp tục sống”

“Châu Âu mùa Hè 15 như một cuộc khủng hoảng
nhiều sắc màu
nhân văn
những gièm pha tị hiềm từ nơi khác
những ẩn ức nhập cư”

“những người đàn ông thất thơ tìm việc
những người đàn bà làm bếp trong lều
những đứa trẻ được hoài thai từ đây trên những con đường
những góc phố
bên cạnh những thùng rác”
(Trích “Bài Ca Vượt Biển 1”)

***

Tôi trộm nghĩ, khép lại thi phẩm thơ Quỳnh là những bài thơ có nội dung nhân bản như vừa trích dẫn ở trên, thì đó cũng là một trong những điểm son của người làm thơ trẻ tuổi này vậy.

Du Tử Lê

(Calif., Tháng Sáu 2017)

—-
Chú thích: (*) Mỹ học (phonics) là bộ môn khoa học, có tính lý thuyết về sự nhận thức và thưởng thức cái đẹp trong thiên nhiên, trong nghệ thuật và trong xã hội. Thuật ngữ này là một phát kiến của triết gia người Ðức, Alexander Baumgarten, để đặt tên cho tác phẩm Aestheticä (Mỹ học) của ông (1750-1757). Ông dùng từ “mỹ học” cho lý thuyết về nghệ thuật tự do hay khoa học về cái đẹp nhận thức được. (Nđd)

……………………………………………………………………….

Nguồn:dutule.c0m –

NGUYỄN LỆ UYÊN-Nhớ Phạm Ngọc Lư
19 Tháng Sáu 2017 

 Nguyễn Lệ Uyên

NGUYỄN LỆ UYÊN – Nhớ Phạm Ngọc Lư
“Trong cuộc chiến tàn khốc này, đứa nào
sống sót là kẻ chiến thắng”
Phạm Ngọc Lư

Trong nửa thập niên 60, 70 (TK XX), bên cạnh những nhà văn nhà thơ mà tên tuổi của họ đã được khẳng định, còn có đông đảo những người viết trẻ: Họ, đa phần là những người không có tuổi thanh xuân yên ấm, lần lượt bị vãi ném vào chiến trường; số ít còn lại là công chức, sinh viên… đã có những đóng góp không nhỏ cho dòng văn học miền Nam – dòng văn học được xem là tự do sáng tạo có giá trị về mặt thẩm mỹ và nhân văn trong mỗi tác phẩm – với nhiều khuynh hướng dị biệt (viễn mơ, dấn thân, hiện sinh, hiện thực đối kháng…)

Và, mặc dù dòng văn học này đã bị bức tử sau ngày 30.4.1975 bằng mọi cố gắng “tẩy xóa” của bên “thắng cuộc” dưới nhiều dạng thức khác nhau, nhưng nó, sau hơn 40 năm vẫn âm thầm và lặng lẽ chảy; vẫn đọng lại trong tâm thức độc giả những giá trị không thể đảo ngược. Nó luôn là cái mới của hôm nay, bởi đã tiếp cận với dòng văn học phương Tây qua các trào lưu nhưng vẫn giữ được hồn cốt văn hóa Việt qua biết bao biến động lịch sử.

Những người viết thuộc thế-hệ-chiến-tranh này, có những người bỏ cuộc, nhưng không ít người đã thành danh, đã được công chúng đón nhận như một hiện tượng mới, chững chạc tiếp bước các bậc đàn anh, làm rạng rỡ cho một miền văn chương luôn bị phía bên kia dán cho nhiều nhãn mác thô thiển: Đó là Trần Thị Ngh. Nguyễn Tất Nhiên, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Hoài Thư, Vũ Hữu Định… Mỗi nhà văn trẻ đều mang một phong cách riêng, không lẫn lộn, không là cái bóng của các nhà văn đi trước, ít nhiều làm đa dạng, sáng đẹp cho thời kỳ này. Phạm Ngọc Lư trong số đó.

Anh xuất hiện lần đầu với những bài viết ngắn trong mục đoản văn trên tuần báo Nghệ Thuật (Mai Thảo chủ bút, Viên Linh thư ký toà soạn) vào cuối những năm 1966, ký tên Phạm Triều Nghi. Đến năm 1969, có thơ và truyện ngắn đăng tải đều đặn trên các tạp chí văn chương miền Nam: Văn, Vấn Đề, Bách Khoa, Trình Bày, Ý Thức… và ký tên thật.

Trong lời bạt tôi viết cho tập thơ Đan Tâm của Lư, có một đoạn trích từ tập tiểu luận Vũ Trụ Thơ (1) của nhà phê bình văn học Đặng Tiến: “Yêu một tác phẩm nghệ thuật giống như yêu một người đàn bà ở điểm là mỗi lần yêu, chúng ta khám phá ở người tình một trinh tiết mới. Yêu một tác phẩm là sáng tạo một trinh tiết mới cho tác phẩm”.

Tôi “yêu” những tác phẩm của Lư bởi sức sáng tạo không ngừng trong những câu chữ lấp lánh của anh! Riêng nhà văn Cung Tích Biền thì có cái nhìn sâu hơn, phân tích kỹ hơn: “Phạm Ngọc Lư khá điềm tĩnh trong hành trình sáng tác của mình, tuy sâu trong tâm khảm, từ biển rộng tâm linh, Lư vẫn cháy bỏng với những khắc khoải, tư duy. Trong bao năm Lư không chạy theo những trào lưu, trường phái, những hào nhoáng ồn ào của thị hiếu. Không làm con thiêu thân để chết non, tàn mùa theo những cám dỗ tức thời. Thơ Lư hình thức là mẫu mực, cổ điển. Vì ta cứ đủng đỉnh cái Riêng mình. Cái bình cổ sống rất lâu. Chính ở điểm này Lư thành công. Nói được rất nhiều trong biểu hiện điều Muốn Nói. Không cầu kỳ. Không đánh bóng ồn ào mặt ngoài bởi ngôn ngữ rỗng…” (2)

Điều đáng nói, mặc dù rất thành công với những bài hành, thất ngôn, lục bát cùng những truyện ngắn phản ảnh những góc khuất của bộ mặt xã hội đương thời, một xã hội đảo điên, chiến tranh bùng vỡ ở mức độ ác liệt, để đưa vào tác phẩm với những cảm thức được chắc lọc đến từng chi tiết nhỏ, hoặc dùng điển tích để chuyển tải – và đã thành công, được độc giả thời bấy giờ (cả sau này) đánh giá cao – nhưng không bao giờ tự mãn, khoa trương mà luôn tìm đến cái mới hơn, đẹp hơn.

* Thơ như một vết cứa vào tim người

Với thơ, anh có một phong cách rất riêng, không lẫn với những người cầm bút cùng thời. Cũng vết về chiến tranh, về thân phận con người, về tình yêu, nỗi cô đơn, khao khát, về mặc cảm đọa đày, khốn cùng…nhưng không sử dụng loại ngôn ngữ sáo rỗng, thời thượng, mà vận dụng các điển điển tích, tiếng Việt-Hán để chuyển tải nội dung. Vì vậy, sau khi khép lại một bài thơ, người đọc có cảm giác đang chìm đắm trong những câu từ cổ kính, lấp lánh như những chiếc bình cổ. Nói khác, với một thủ thuật tài hoa, anh đã làm mới dòng thơ cổ điển mà không dẫm chân lên khuôn thước thơ cổ điển. Điều này cũng dễ hiểu, bởi từ nhỏ, anh đã học chữ Hán với ông nội và cha; lớn lên theo học ban Hán-Nôm Đại học Văn Khoa Huế, nên câu từ luôn được nâng niu, trau chuốt cẩn trọng.

Nhà văn Đỗ Trường đã đưa ra nhận xét: “Thơ Phạm Ngọc Lư mang đậm chất cổ thi và sử dụng nhiều điển tích cũng như từ ngữ Hán Việt. Do vậy, thơ ông cổ kính sang trọng, nhưng khi đọc lên tưởng chừng rất dễ vỡ” (3).

“Em từ tình sử bước ra

Y trang yểu điệu đôi tà mộng bay…

Chờ nhau gác gió lầu mây

Nghìn đêm giọt nến rơi đầy trang thơ

Nghìn đêm sông lạnh trăng mờ

Trương Chi bạc tóc bên bờ Tương Giang

Chiều nao nhất kiến hồng nhan

Chiều nay xác bướm rơi vàng mộ hoa

Áo xưa mộng mị đôi tà

Đành thôi xếp lại Nam Kha gối đầu” (Thuyền Quyên).

Cách đây 15 năm, từ Đà Nẵng Lư gửi thư cho tôi, có đoạn: “Theo tôi, nhà thơ=lãng mạn+cô đơn+bi thương+kiêu hãnh, trong đó “cô đơn” là thuộc tính bi thảm nhất. Chính trong cái cô đơn cùng cực, tôi thấy mình chết, ra đi và đã viết:

Tâm hồn bật một tiếng kêu

Vỡ ra lênh láng giữa chiều tang thương

Âm ba đồng vọng mười phương

Có ai thiên cổ đoạn trường hồi âm?

Tay ai nâng nhẹ phù thân?

Dìu tôi đi giữa phù trầm khổ đau

Tôi và nước mắt dìu nhau

Bơi qua bể khổ muôn màu nhấp nhô

Tôi và cát bụi ngu ngơ

Bay quanh trời đất đợi giờ tương sinh” (thư riêng đề ngày 27.10.2002).

(Nếu nói rằng: Mỗi tác phẩm của nhà văn là những dự báo cho tương lai thì những câu thơ trên như một ám thị cho cái ngày định mệnh cuộc đời anh: Tôi và cát bụi ngu ngơ/Bay quanh trời đất đợi giờ tương sinh. Đó là ngày 26.5.2017 lúc 18h45 tại Đà Nẵng, gây bao thương tiếc cho bạn bè và độc gải hằng mến mộ anh, như lời anh Cung Tích Biền ghi trong thư: “Vắng bóng đời này, lại vĩnh cửu Chốn Kia. Mong Lư đời đời an nghỉ. CTB” (thư ngày 4/6).

Cả cuộc tồn sinh của Lư, lúc nào anh cũng cảm thấy bất toàn, cô đơn, đau khổ… Chúng luôn đeo ám vào những trang thơ văn của anh. Anh loay hoay với bốn bức tường lạnh trong nhà trọ khi dạy học tại Tuy Hòa, loay hoay với đời sống vợ con sau 75. Lư than thở với tôi: “Mình bất tài, bất lực, hèn… sao?” . Đó là khoảng năm 1983 (hay 1984?), anh không chịu nổi ngày ngày phải đi bộ non 2 cây số, gánh từng gánh nước tưới những vồng khoai lang giữa bãi cát cao ngất nghểu ở HTX NN quê anh với chỉ 200grs nửa lúa nửa khoai sắn cho một ngày công (?!) sao đủ nuôi 4 miệng ăn, đành phải gạt nước mắt gửi vợ con về quê ngoại (Qui Nhơn) vào Long Khánh (Đồng Nai) đào đãi vàng, đốt than; xuống tận Hồng Ngự (Đồng Tháp) nấu rượu lậu, bán trái cây độ nhật… và “nghề” nào cũng thất bại, khiến anh đau đớn, quặn thắt hơn trong cuộc mưu sinh ở thời buổi ngăn sông cấm chợ! Thất chí chồng lên thất chí.

Tuổi tác chừng này vẫn ngây thơ

Ma xui quỷ khiến ra ngồi chợ

Bán gió rao trăng… một núi dừa

Lúc chán, rửa môi dăm chén rượu

Lau chân mắc võng nằm lơ mơ

Mây cuốn nắng thiu lòng u uẩn

Tuồng đời như cảnh chợ ngày mưa

Thôi để ta yên bên chén rượu

Uống say… thành bại cũng bằng thừa

Uống say… ném áo lên nóc quán

Hết nợ hết duyên… vĩnh biệt dừa! (Ngồi Chợ)

Cuộc mưu sinh đối với Lư trong giai đoạn này không dễ dàng chút nào. Từ biệt những ê chề miền Đông, Lư xuôi về vùng đất phương Nam. Nhưng đất phương Nam mênh mông sông nước, bạt ngàn màu xanh vờn phủ tính phóng khoáng ấy cũng chẳng dung nạp được anh trong đời thường, nói chi đến tình đồng điệu? Trong cảnh mênh mông, bạt ngàn kia, dường như khiến Lư cô đơn hơn, quặn thắt tâm can hơn khi đưa mắt trông vời phương Bắc, chốn quê nhà xa xôi:

Chân trời giang rộng mênh mông

Cố hương thăm thẳm tịnh không lối về

Giang hà im bặt thuyền ghe

Tha phương nhật mộ… não nề bèo mây (Chiều Qua Châu Thổ)

Đó là bài thơ anh viết khoảng giữa năm 1986 lúc xuôi xuống Hồng Ngự. Ở đó cũng có vài người bạn, nhưng không phải bạn thơ mà là những bạn rượu tầm cỡ Tây Môn Khánh – theo lời anh kể lại! Những bữa rượu ấy không giúp anh nguôi ngoai nỗi cô đơn như một ám ảnh phải đeo mang. Hình ảnh những nơi anh ngụ cư ám vào tâm trí như những ám thị “bệnh hoạn” liên tưởng qua hàng cây, con sông, bến nước, đất đỏ ngấm vào tâm trí rồi đặt bút “tổng kết” trên mười năm lang bạt mưu sinh trong bài Bụi Đỏ viết năm 1994 và chú thích “sau chín năm ly tán”:

Quê người nương náu kiếp lưu dân

Bụi ba dan có phải hồng trần?

Đỏ quạch mồ hôi chua cơm áo

Cơm áo bạc tình… bán hết thanh xuân

Đi giữa rừng cao su trùng điệp

Lòng đau như vết cạo còn tươi

Mủ cứ chảy bám dày tâm sự

Tâm sự đùn cao như gò mối chôn người.

…Đi lơ ngơ vừa tròn một giáp

Mười hai năm lệ tủi đời câm

Rượu Nam phương uống cùng tứ xứ

Tứ xứ ly gia dễ mủi lòng

Cũng dễ quên nhau khi hết rượu

Cái ân tình có có không không

Chốn đất khách lắm hào sảng nhưng không thiếu những “phàm phu”. Bên cạnh những “hào sĩ” những kẻ “nhân từ” là những tay “ích kỷ, lếu láo, say sưa…” khiến anh cảm thấy mệt nhoài với bến nước mười hai đục ngầu bụi đỏ; để sau đó tự hỏi và tự trả lời:

Sao không quay về bến thứ mười ba:

Bến nước trong xanh… soi bóng quê nhà!

Mười hai năm lao thân lao trí đã đủ để anh vật vã những đau đớn, buồn tủi trong “hành trình” xuôi Nam, lang thang nơi đất khách kiếm tìm sự sống kể từ lúc xã hội bị đảo lộn, đạo đức, phẩm hạnh con người bị vãi tung ra lề đường; miếng cơm manh áo ẩn nấp trong những tráo trở. Cái bầy người được mệnh danh là quần chúng nhân dân, là nền móng cho một đất nước được chăn dắt bằng những tấm tem phiếu. Cái ăn cái mặc trở thành thước đo giá trị làm người. Cuộc tìm kiếm áo cơm cũng bình thường như bao con người khác cùng thời, nhưng đến phút cuối thì: Đỏ quạch mồ hôi chua cơm áo/ Cơm áo bạc tình bán hết thanh xuân. Hai câu thơ như hai vết cứa sâu hoắm lên thịt da, phơi lộ hết những bần hàn cơ cực trong một giai đoạn đau khổ tột cùng của bản thân anh trong giai đoạn cùng khổ của đất nước này. Ngoảnh lại, cả một đời làm người của Lư là hình ảnh con ngựa già đã chấm hết những hào quang một thuở!

Ngồi thất thế như con ngựa ốm

Nhớ đường trường thè lưỡi liếm chân (Tuy Hòa Năm Năm)

Lời thơ ẩn lời than đến nao lòng, con ngựa ốm kia cũng là thân phận của người trí thức đã cùng đường, tuyệt lộ trong một xã hội bị đảo lộn mọi trật tự sau biến cố 30.4. Nhiều bài thơ trong hai tập Đan Tâm và Mây Nổi (đều do Thư Ấn Quán, HK ấn hành) của Lư, luôn thấp thoáng bóng dáng của kẻ sĩ thất thế nhưng vẫn giữ lòng tự trọng, liêm sỉ chối từ mọi danh vọng, tiền tài… lui về quê chịu cảnh sống thanh bần chứ không chịu khuất phục, quỳ gối khom lưng.

Trong đời, khi tiếp cận với văn chương, tôi rất ngưỡng mộ và kính phục nhà thơ Hữu Loan sau Nhân văn giai phẩm, một nhân cách lớn trong hành xử với đời; đến cả cái giải thưởng “danh giá” của nhà cầm quyền, ông cũng phẩy tay, bịt mũi, nhắm mắt.

Với Phạm Ngọc Lư thì khác, anh thuộc thế hệ con cháu của Phùng Cung, Hữu Loan, Lê Đạt… sống trong hoàn cảnh xã hội khác xa với “Nhóm Nhân Văn”, được thụ hưởng một nền giáo dục tử tế “nhân bản, dân tộc, khai phóng” nên khó dung hợp với xã hội mới, trong đó có thừa những lọc lừa, dối trá… phi đạo đức, phi nhân bản. Một xã hội như vậy hoàn toàn xa lạ với những con người cũ (SG) ! Nhưng xem chừng xã hội thời cải cách ruộng đất và xã hội đánh vào tư sản mại bản, cải tạo công thương nghiệp… không khác xa nhau trong cách “xử sự” với người dân!

Cuối năm 2005 là thời gian anh quay về cố hương không lâu, nhìn cảnh đời nhí-nhố-xum-xoe-lừa-lọc (chữ của Lư), anh thấy thất vọng, cay đắng hơn và đặt bút viết liền một mạch bài thơ Đề Thơ Trước Mộ Thanh Xuân (khi mà mọi bưng bít thông tin về nhà thơ Hữu Loan được công khai trên mạng). Bài thơ khá dài, bộc lộ khí chất và bóng dáng của một kẻ sĩ thời hiện đại “không thèm ăn thóc nhà Chu”:

“… Trèo lên xe trâu/ Lui về quê kiểng/ Mài răng gặm nhắm cái thanh bần!/ Lượm lặt nứa tre che căn lều nhỏ/ Phên cửa phong phanh suốt ngày no gió/ Người quen tâng bộc gọi mao lư/ Kẻ nôm na kêu đích danh nhà cỏ/ Chẳng hay ho gì cỏ với mao/ Thời bất lợi voi đành làm chó/ Phong tống thời lại giun dế hóa rồng/ … Tìm trong gia phong mấy lời răn dạy/ Hiểu đâu nhất thời/ Đâu là vạn đại/ Than ôi!/ Cái khôn mới hôm qua/ Hôm nay bổng trở thành cái dại/ Quay lưng với đời ư?/ Dòng đời cuồn cuộn/ Biển đời lợn cợn/ Bảy đục ba trong/ Quay mặt với người ư?/ Mặt người sắc nhọn/ Biển người sao mà ghê rợn/ Đua chen hôi lợi bòn danh/ Đâu dám ví mình với Đào Uyên Minh/ Tụng Quy khứ lai từ…” (4).

Có thể xem Đề Thơ Trước Mộ Thanh Xuân là những lời tự sự, bày tỏ thái độ của nhà thơ trước xã hội hiện tại, sau khi phải nếm trải mọi cay đắng mà anh đã dầm cả thân mình, lặn hụp vào lớp nát nhão sự đời đen trắng, vàng thau lẫn lộn.

…Phải ngươi ba chìm bảy nổi/ Bắt ta mười kiếp long đong/ Mây có – gió không/ tình câm – thơ điếc/ Giai nhân còn mà anh hùng hết/ Chưa mùa đông sao tóc xanh bạch tuyết/ Ngũ thập rồi, tay trắng xóa bạch vân/ Ô hô! / Thiên địa vô cùng/ Uống say mà khóc Đặng Dung – Thuật hoài/ Khóc rồi đập nát cơn say… (Túy Hoài)

Trong gần 100 bài thơ ở hai tập Đan Tâm và Mây Nổi, thì Biên Cương Hành là bài thơ gây ấn tượng mạnh cho độc giả từ ngày trước tới tận bây giờ.

Biên Cương Hành được Lư thai nghén từ khi anh đổi về dạy học tại Củng Sơn, một quận lỵ nhỏ xíu (của Phú Yên) giáp ranh Cheo Reo, bị rừng núi bao phủ bốn bề, trước mặt là sông Ba sâu hoắm; mọi liên lạc với bên ngoài đều bị đóng kín bởi những họng súng của hai bên. Anh thường gọi nơi đây là “biên khu”, vì mỗi khi muốn về thành phố phải đi nhờ trực thăng quân đội, hoặc theo đoàn xe mở đường. Với một khoảng không gian chật hẹp heo hút, chập chùng đồi núi nhấp nhô, lính đông hơn dân và ngày đêm phải nghe tiếng bom đạn gầm réo khiến anh tưởng như rằng chính mình đang có mặt ngoài trận mạc!

Tưởng cũng cần nhắc lại, một số bài viết về thơ Phạm Ngọc Lư, khi đề cập tới Biên Cương Hành, cho rằng Lư viết bài này khi anh tham gia hành quân trong chiến dịch Lam Sơn 719 vào mùa xuân 1971 của quân đội VNCH trên đất Hạ Lào và bị thất bại nặng nề. Hay như nhà thơ Viên Linh, trong bài viết “Thể hành trong thơ Việt Nam từ bài Tống biệt hành của Thâm Tâm”, đăng trên www.nguoiviet.com số August 21, 2013 cho rằng: “Nơi Phạm Ngọc Lư một nhà thơ trẻ thuộc lớp sau cùng của Miền Nam trước 1975, anh chiến đấu trên mặt trận Cao Nguyên miền Trung, nơi gió Lào tanh tưởi, mùa khô xào xạc, giặc nước rình mò , rừng xanh thắm máu. Người đi ở đây là lính ra trận, người theo dõi nơi quê nhà là thiếu phụ chờ mong: “Em đâu, quê nhà chong mắt đợi /Hồn theo mây trắng ra biên cương / Thôi em, yêu chi ta thêm tội / Vô duyên xui rơi lược vỡ gương / Ngày về không hẹn ngày hôn lễ / Hoặc ngày ta nhắm mắt tay buông.” (http://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/The-hanh-trong-tho-Viet-Nam-tu-bai-Tong-Biet-Hanh-cua-Tham-Tam-2849/)

Điều này không đúng. Lư chỉ học quân sự 9 tuần ở quân trường Quang Trung và sau đó được biệt phái về trường cũ, chưa từng cầm súng ngoài chiến trường bao giờ.

Lư khởi viết bài thơ này từ cuối năm 1971, sau đổi sang thể “hành” và hoàn thành vào tháng 5.1972. Sau vài lần nhuận sắc, Lư gửi bản thảo cho tạp chí Văn. Ông thư ký tòa soạn Trần Phong Giao đọc bài lai cảo và không tiếc lời khen, cho đăng ngay vào Văn số (?) tháng 10.1972. Có thể nói đây là bài thơ hay nhất trong cuộc đời làm thơ của Lư, đến độ khi đọc xong bài thơ này, nhà thơ Du Tử Lê phải thốt lên: “Biên Cương Hành của ông, đã như một trận động đất lớn: Bất ngờ. Sửng sốt. Thốn buốt tâm can thế hệ”. (5)

Thế hệ đi trong chiến tranh “giải phóng và bảo vệ tự do” là bi kịch của dân tộc. Cuộc chiến tương tàn ấy đã gieo biết bao tang tóc cho triệu triệu người người dân hai miền. Lư đã sống trong những thời khắc kinh hoàng đó, nên anh không thể dửng dưng đứng bên lề. Không cầm súng bắn nhau, cũng không có mặt trên bất kỳ chiến trường ác liệt nào, nhưng hàng ngày, anh có thể “nhìn thấy” cảnh đầu rơi, máu đổ, thịt xương nát tan, lương dân gồng gánh chạy giặc, bỏ lại làng quê mịt mù khói lửa ngút cao và; hàng ngày anh còn chứng kiến những chiếc quan tài kẽm, những người vợ trẻ bồng con trong màu trắng khăn tang… Tất cả những hình ảnh có thật đó đã xoáy động tâm can anh để, cuối cùng phải bật ra những đớn đau trên trang giấy:

Biên cương biên cương chào biên cương

Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương

Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt

Núi chập chùng như dãy mồ chôn

Gớm, gió Lào tanh mùi đất chết

Thổi lấp rừng già bạt núi non

Mùa khô tới theo chân thù địch

Ta về theo cho rậm chiến trường

Chiến trường ném binh như vãi đậu

Đoàn quân ma bay khắp bốn phương

Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi

Núi mang cao điểm ngút oan hờn

Đá mang dáng dấp hình chinh phụ

Trơ vơ chóp núi đứng bồng con

Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy

Đá Vọng Phu mọc khắp biên cương

Biên cương biên cương đi biền biệt

Chưa hết thanh xuân đã cùng đường

(Vào đường dẫn này để đọc trọn bài thơ Biên cương hành:

http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=8689 )

Biên cương hành mang tính khái quát cao cho cả một giai đoạn oan khốc của dân tộc. Những hình ảnh Lư mang vào thơ, từ núi, rừng, gió Lào, đá, người chinh phụ, núi vọng phu… đã khắc họa “một thời địa ngục của đất nước” (chữ của Du Tử Lê), không riêng cho bên này hay bên kia. Đó là xương cốt, là máu thịt của những người lính Quốc gia và Cộng sản bị hoài phí một cách oan uổng, dửng dưng máu lạnh.

Đầu năm 1972, khi viết xong Biên cương Hành, Lư đã đọc cho chúng tôi nghe bên chiếu rượu trong đêm gió Lào cuồng dại trên mái nhà, nghe đến sởn gai ốc, rờn rợn da gà, khắp người tựa hồ có hàng ngàn mũi kim nhức buốt thịt xương. Gần nửa thế kỷ, mỗi khi nhớ bài hành này lập tức nhớ nguyên giọng đọc uất nghẹn của Lư, người đã hóa thân chữ nghĩa cho định mệnh của dân tộc trong chất giọng hiu hắt nghẹn ngào, như thể đó là lời than oán của những chinh phụ, những tiếng kêu la đau đớn của những người dân vô tội, của các chiến binh hấp hối ngoài trận mạc!

Về mặt nào đó, Du Tử Lê đã chính xác khi đưa ra nhận định về bài thơ Biên cương hành của Lư: “Tôi gọi đó là “đoạn trường” bất thường của một bài thơ được sinh nở với định mệnh của một thứ cột tháp thảm họa khốc liệt. Mỗi con chữ không chỉ dính gân cốt, thịt, xương trăm ngàn đọa kiếp mà, còn cõng trên lưng cả những hồn ma oan khuất một thời địa ngục đất nước, quê hương nữa! Cho tới khi bài thơ, hội đủ những yếu tố để “đá vỡ, ngọc lộ,” ngời ngợi khí chất tư riêng, khắc họa Những hoắm, sâu thương tích phận người…” (link đã dẫn 5).

Sau Biên cương hành, Lư viết bài Trên Đèo Bình Đê vào năm 1973, lúc hiệp định Paris vừa ký kết, nhưng hòa bình đã không đến, hai bên lại tiếp tục gây ra thảm cảnh “chiến trường ném binh như vãi đậu” để giành nhau từng thước đất cắm cờ (sic). Trên đường về Huế, qua đèo Bình Đê, Lư nhìn thấy cảnh xóm làng, ruộng vườn, với Tam Quan, Bồng Sơn (Bình Định) phía nam và Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) phía bắc đã tan nát vì binh lửa trong các trận đánh mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972!

… Tháng tư/ Lửa bùng lên đâu chợ/ Lửa cháy quanh sông/ Lửa vây Hoài Đức/ Lửa đốt Bồng Sơn/ Người người tan xác giữa đồng/ Người người ngã gục bên dòng Lại giang/ Người người bỏ thân trên đường chạy loạn/ Đôi mắt trừng lên nỗi kinh hoàng/ Đôi mắt ngó về đâu chòng chọc/ Bốn bề khói lửa mù giăng/ Bốn bề binh đao cuồng nộ/ Bốn bề đổ nát tan hoang/ Chạy mau chạy mau người mẹ Hoài Ân/ Quang gánh trên vai chất đầy thống hận/ Máu bầm vướng víu bàn chân/ Chạy đi chạy đi người chị Hoài Nhơn/ Sao cứ nằm ôm con thơ đùm trong tay nải/ Máu khô đen khuôn mặt lạc thần/ Pháo tràn lan xối xả/ Lửa rần rật trên lưng/ Chạy về đâu ?

Lư đã đồng ý với nhận xét của tôi cách đây hơn 40 năm, trong một buổi trà dư tửu hậu rằng: Trên đèo Bình Đê, là những cảm xúc thật, về những cảnh tượng có thật đang xảy ra trước mắt. Những nát tan khói lửa ấy đã khơi dậy những cảm xúc chân thật để bật ra thơ, nhưng dẫu sao, khi đọc xong, tôi vẫn thấy nó (TĐBĐ) là cái bóng của Biên Cương Hành.

Để khép lại phần viết về thơ Phạm Ngọc Lư, xin mượn nhận định sau đây của nhà văn Đỗ Trường: “Có thể nói, Biên Cương Hành là một trong những bài thơ hay nhất viết về chiến tranh, không chỉ của thi ca miền Nam, mà cho cả nền thi ca đất Việt. Đa số những bài viết về đề tài chiến tranh, hay cổ động chiến tranh thường có giá trị nhất thời. Nhưng Biên Cương Hành lại có sức sống dẻo dai và sự lan tỏa mạnh mẽ, bởi ngoài sự thật tàn khốc của chiến tranh, nó còn chứa đựng giá trị nghệ thuật cao” (link đã dẫn 3).

Truyện là nỗi niềm thế hệ chiến tranh.

Phạm Ngọc Lư viết truyện không nhiều, khoảng gần 20 truyện, đăng trên Văn, Bách Khoa, Vấn Đề, Ý Thức, Tuổi Ngọc… Sau năm 75, anh không còn giữ được truyện nào trong tay (do sách báo bị tịch thu). Giữa năm 2016, khi Lư lâm trọng bệnh, anh em nhóm Thư Ấn Quán đã dày công sao lục trong các thư viện HK, hoặc còn lưu giữ được những số báo có đăng truyện Lư, chia nhau đánh máy và cuối cùng nhà văn Trần Hoài Thư đã ngồi “vá” lại những truyện thất lạc này thành tập truyện Sợi Khói Bay Vòng gửi về VN như một tấm lòng của anh em đối với Lư. Trong lời mở cho tập truyện, Trần Hoài Thư viết: “Lấy tựa đề truyện ngắn Sợi Khói Bay Vòng không phải nó là truyện ngắn đặc sắc hay tiêu biểu. Những truyện của Phạm Ngọc Lư đều hay, đều đẹp, đều buồn. Có truyện tình. Có truyện chiến tranh. Có truyện nói về thân phận lưu đày nơi đất trích. Nhưng Sợi Khói Bay Vòng là truyện có thể chuyên chở hết tất cả cái định mệnh của tuổi trẻ, dù nam hay dù nữ…”.

15 truyện trong Sợi Khói Bay Vòng, viết về nhiều đền tài khác nhau: tình yêu, thân phận làm người, nỗi cô đơn khắc khoải… nhưng tất cả đều lồng ghép trên tấm phông chiến tranh với nhiều gam màu ưu uất, có lúc như không tìm thấy lối thoát cho một tương lai tươi sáng với những chàng trai, cô gái thuộc thế-hệ-chiến-tranh này. Những thanh niên trên dưới 20 tưởng chừng như đang được thụ hưởng những chuỗi ngày tươi đẹp; nhưng thật ra đó chỉ là lớp vỏ che chắn bên ngoài khi những lời sấm truyền ngày càng lan rộng khắp làng quê, thành thị…: “Cả xóm người ta đồn rân: tháng Năm đổ máu, tháng Sáu hòa bình. Tháng Sáu âm lịch rồi đó cậu” . Hòa bình đâu không thấy, chỉ thấy máu tiếp tục đổ, nhà cửa ruộng vườn vẫn liên tục bị xới nát bởi bom đạn, lớp lớp thanh niên vẫn phải lao ra chiến trường: “Có thằng con chớ. Hắn bị bắt quân dịch hồi tết, nghe nói đang đánh giặc tận Cao Miên” (Cái Đuôi Sao Chổi, tạp chí Ý Thức, số 7). Và, hệ quả của nó là: “Cô gái bước lại mở hé cửa và bối rối xô Chấn lui. Nhưng anh cũng vừa kịp thấy cảnh tượng trước mắt: người đàn ông đang gục đầu trên cái rương gỗ khóc tức tưởi, bên cạnh bó nhang đang tỏa khói và mấy ngọn đèn cầy cháy leo lét, buồn thảm. Cô gái chảy dài nước mắt, nói mếu máo: Tội nghiệp anh tui phải nằm lại dọc đường đêm nay… Cái rương gỗ ấy đựng hài cốt anh tui!” (Cuối Ngày Cuối Đường, Văn số 223, 1973).

Lư là nhà giáo, hàng ngày anh phải chứng kiến hoặc nghe kể lại lắm chuyện thương tâm, tang tóc. Trong truyện Một Dòng Sông Trong Miệng Ngậm, đăng trên Văn số 148, ngày 15.2.1970, mô tả những thanh niên tuổi từ 16 đến 19 ở một làng quê tranh tối tranh sáng, có người cày ruộng, có người tham gia du kích địa phương. Họ từng chăn bò tắm sông thuở nhỏ, nhưng kể từ khi trái tim biết rung động, chủ nghĩa vu vơ chen vào, lòng thù hận được trao tay thì tình làng nghĩa xóm vụt tắt nhanh chóng. Đó là nhân vật Mộc, một du kích địa phương đã hành xử với Tương, bạn mình như một kẻ thù đúng nghĩa: “Tương bị đánh thức dậy theo hai người lạ ra khỏi nhà, “cấp trên cần gặp mặt”… Bụng Tương đụng phải vật gì cứng nhọn, chừng đưa tay nắm lấy chàng mới biết mũi súng/ -Trói nó lại! Cùng lúc Tương dợm người thối lui, kịp nhận ra giọng thằng Mộc…/ Mày bắt tao hả Mộc?/… Mày có tội trạng rõ ràng, tự hiểu lấy…/ Tao tội gì? Có phải mầy tư thù việc con Vui không bằng lòng mầy?/ … Sự thật mầy đã phản bội. Mấy hôm nay mầy trốn lên tỉnh tiết lộ bí mật của ủy ban, tội Việt gian, rõ chưa?”.

Cuối cùng Tương bị đưa qua sông, bị bắn chết. Nhưng số phận Mộc sau đó cũng không hơn gì những người khác trong làng: “Sau này tôi mới nghe, thằng Mộc, thằng Giảng, thằng Chiêm đều bị bọn cán bộ cao cấp kết tội rồi hạ sát ngay phút đầu lính mình đổ bộ… Anh hỏi vì sao hả? Dã man thật, làm vậy cốt phòng ngừa việc mấy thằng ấy hồi chánh khai toạt những bí mật cơ sở… Những người trong làng bị chôn sống đều do tay thằng Mộc cả, bây giờ hắn chết rồi còn ai biết chỗ lấp xác mà tìm. Ghê quá anh à, hồi kháng chiến cũng có chôn tươi tụi Tây bắt được (chính mắt tui chứng kiến) nhưng đâu có tàn nhẫn ba bốn chục người một hầm bằng thời nầy…”.

Hình như không gian và thời gian mà Lư mô tả trong truyện là một làng quê nào đó ở Thừa Thiên-Huế hồi tết Mậu Thân khiến chúng ta nhớ lại thời kỳ kinh hoàng: Cách mạng văn hóa ở Trung Hoa, Cải cách ruộng đất ở VN. Cũng vẫn những đứa con nít ấy, từ ngây thơ trong trắng bị chuyển qua lòng thù hận bởi những lời ru ngọt-ngào-man-trá, giống như các nhân vật thiếu niên của Khuất Đẩu trong Người Giữ Nhà Thờ Họ, làm rung chuyển cả xóm làng, làm ông cha chồng và nàng dâu hết phen hoảng sợ này tiếp đến những thoi thóp dập dờn khác, bao trùm căn nhà lá mái luôn kín cửa như hầm mộ chôn lấp cả hai cha con trong đó. Truyện Khuất Đẩu viết sau (2004), còn MDSTMN của Lư trước đó 34 năm, nhưng hành động, thái độ thì không khác gì nhau trong cách trui luyện của Cách mạng: “Gìa như tôi sống trải qua biết bao năm giặc giã nhưng chưa có lúc nào loạn lạc bằng thời nầy. Cái bọn con nít nổi lên làm cha chú mình không” (ám chỉ những Giảng, Mộc, Chiêm… – chú thích của người viết).

Lớp thanh thiếu niên ấy, có người bên này, người bên kia do hoàn cảnh. Nhưng chắc chắn có điều rằng, không ai muốn lao vào chém giết nhau, trừ phi bị thúc ép, bị nhồi nhét. Rồi thì cũng có người tỉnh trí, nhận ra sự việc, có người mãi lú lấp vào những hào quang không thật. Và cũng có người vùng vẫy cố thoát ra khỏi vòng ám chướng vô định như lời kể nhân vật Cưu cho bạn mình nghe chuyện thật bi hài: “Tao đang bị quân cảnh truy tầm… Thằng con bác lớn tồng ngồng mà sửa khai sanh còn mười bốn tuổi. Tụi lính tóm được, lột quần nó lắc đầu chửi thề, đ.m 14 tuổi gì mà… khó coi quá. Nhưng tụi chúng không bắt nó đi quân dịch, lại nghịch ngợm bảo nó phải nhổ sạch lông mới được tha về. Thằng nhỏ cắn răng khóc ngất…” (Sợi Khói Bay Vòng (Văn, số 153 tháng 5.1970).

Truyện này Lư viết trong thời gian dạy học tại quận lỵ heo hút miền núi Củng Sơn và hoàn thành cuối năm 1969 (Sau đó Lư viết tiếp bài thơ nổi tiếng Biên Cương Hành). Có thể coi đây là truyện ngắn chắc tay nhất của Lư, phản ảnh đúng cách nhìn, suy nghĩ và cách sống của tuổi trẻ thời chiến; trong đó là những vòng tròn không lối thoát, là tình yêu bị mất mát cùng những cay đắng về cuộc đời đối với thời cuộc đảo lộn, chiến tranh lan rộng khủng khiếp. Thái độ chán chường mệt mỏi ấy của những nhân vật trong SKBV đã nói lên đúng thực trạng xã hội miền Nam thời bấy giờ. Họ tìm thấy nhan nhản những nhậu nhẹt, đĩ điếm, gái bán bar, lính Mỹ… như những vệt xám ngoét trong tâm trí trên một nửa đất nước này. Nh

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics