1.Nhà thơ Từ Hoài Tấn-Kỳ 2(DTL)2.Quê nhà quê người- Biết đâu nguồn cội (LN/NV)3.Thơ Tô Thùy Yên(dtl.com)

Thơ Từ Hoài Tấn, những game màu khẩm nặng trầm tích

Du Tử Lê

Nguồn:nguoiviet.com- February 24, 2017


Nhà thơ Từ Hoài Tấn. (Ảnh tư liệu của Từ Hoài Tấn)

(Tiếp theo và hết)

“Tôi thích cái lối chơi thơ của anh. Từ Hoài Tấn chế cái gạch ngang (-) như nhấn mạnh cho người đọc hiểu cuộc đời anh là thế đó. Du Tử Lê thì chặt (/) xuống mỗi con chữ, thành thử khi đọc hay ngâm thơ ông có cái gì như bóp cuống họng mình lại, nhưng làm quen hình thức đó rồi, đến khi đọc thì thấy thơ của Du tiên sinh hay siêu việt và bay bổng. Cho nên thơ nó nằm ở cõi phi ấy nhưng phải khởi từ cõi thực. Cho dù gạch ngang hay gạch dọc, chưa phải xác định được một bài thơ đặc thù, bởi một bài thơ không phải là muốn nói một cái gì mà hiện-hữu (a poem should not mean but be) ngoài ra có những siêu lý của thơ nghĩa là thơ phải đi lạc đường mới là thơ hay! Tôi nói dông dài về thơ, tại vì thơ của Từ Hoài Tấn tợ như thơ Thiền. Nghe thiền sư Cổ Ðức làm bài thơ 4 chữ này:

“Khi đói ta ăn
Khi mệt ta ngủ.”

“Chỉ mấy dòng thơ ngắn mà diễn được vòng luân hồi và thuyết vạn vật nhứt thể của đạo Phật. Từ Hoài Tấn là đệ tử chân chính của những nhà thơ thiền (?) cho nên bài thơ mở đầu cho tập thơ “Hành Tinh Phiêu Lạc” cũng được ngắn gọn và thâm hậu như lời nhắn gởi với muôn trùng…

“Tôi nghĩ, chính lối sống vô tư của anh đã giúp anh vượt qua những thử thách, những gian khổ từ trong trại học tập cho đến khi trở về nguyên quán. Từ Hoài Tấn không muốn ai quản chế mình một lần nữa, anh cho rằng tự-giác-giác-tha, anh tự khắc phục anh, hội nhập với đời, thích nghi kịp thời như anh đã lao mình; chính sự dấn thân của anh là những dòng chảy bất tận trong thơ. Từ Hoài Tấn một con người nhạy cảm về tình cảm (sentimental) về tình người cũng như thiên nhiên. Do đó thơ Từ Hoài Tấn phong phú và dồi dào. Từ làm thơ đa dạng, có khi niêm luật, có khi tự do… theo tôi nghĩ thơ anh xây dựng dưới dạng thức nào, tiết điệu trong thơ anh là tiết điệu của thời thượng hôm nay.

“Thơ lục bát Từ Hoài Tấn làm nghe điệu và mềm, chữ dùng rất Huế. Ðan cử bài thơ nầy:

“Ngày dài lóc cóc ngoài hiên
Ngựa xe qua hết một miền còn lưa
Ngày ngồi nắng đổ chưa bưa
Như sầu ai thắp canh khuya chưa tàn.”
(Dáng Thơ)

“Từ Hoài Tấn có những bài thơ tự do, thơ không vần (blank verse) nhưng đọc lên vẫn thấy như có âm hưởng của thơ vần đó là cái vi vu theo tiết nhịp vần xoay mà cuộc sống là biến động miên man theo mảnh lòng người hoài mong; tự do và thoát tục.

“Tôi đứng bên kia con đường
Một ngày đầu đông
Ðợi người tình quá khứ
Và mong đời nhẹ gót qua đây…”
(Huế-1968) (Nđd.)

Trên đây là chân dung thơ Từ Hoài Tấn, vẽ bằng chữ viết của Võ Công Liêm, qua thi phẩm đầu tay “Hành Tinh Phiêu Lạc” xuất bản năm 2003, bởi Nhà XB Thuận Hóa. Gần mười năm sau, năm 2012 Từ Hoài Tấn cho ra đời thi phẩm “Ði, Ðứng và chạy… với thời gian” – – Như tôi biết, đó là thi phẩm mới nhất của ông, tính tới hôm nay.

Vẫn là những cảm quan, cái nhìn đi ra từ trái tim mẫn cảm của một nhà thơ chọn ăn, ở một đời với cô quạnh, nhưng với “Ði, Ðứng và chạy… với thời gian” Từ Hoài Tấn đã cho thấy, dường ông bước lùi sâu hơn vào cõi riêng của mình. Tôi hiểu, khi chọn tựa đề “Ði, Ðứng và chạy… với thời gian” cho thi phẩm mới của mình, tác giả cho thấy dòng đời vẫn xuôi chảy, dù chúng ta có chạy, đi theo hay đứng lại. Nhưng tâm thức của mỗi cá nhân vốn độc lập.

Nó nằm ngoài định luật tự nhiên này – – Hiểu theo nghĩa chúng ta có toàn quyền chọn cho mình một thái độ ứng hợp: Xuôi theo hay đứng lại, bên lề…
Với Từ Hoài Tấn, chẳng những không “Ði, Ðứng và chạy… với thời gian” mà thơ ông còn cho thấy quá khứ, thiên nhiên những bức tranh tĩnh lặng, tựa những game màu cũng đã khẩm nặng trầm tích qua những liên tưởng sắc, buốt, xỉa-xói-vết-thương:

“Ly thủy tinh trong vắt như nỗi buồn không soi đáy
Khuôn mặt em hình quả mãng cầu gai
Ta nhảy múa với niềm vui cô độc

“Một kẻ lạ đi qua
Lời nguyền rủa
Như thanh kiếm chém vào mặt

“Một cô nàng đi qua
Tiếng cười vỡ
Ly thủy tinh ném xuống mặt đường

“Ngày đi qua
Thì thầm điệu ru tội lỗi
Ðôi tình nhân hôn nhau cuối hẻm”
(Trích “Trong Quán Rượu”)

Hoặc:

“Ta thử khóc và cười mỗi ngày
Hình như không ai nhìn thấy
Ngày đi và đêm xuống
Không có nghĩa gì với gã ăn mày mù lòa tự nhiên đi qua công viên
Hay ngồi lặng lẽ trên băng ghế

“Ngày đi và đêm xuống mối tình em mang rơi theo
Sao viên đá nặng vẫn đeo trên cổ.”
(Trích “Khúc Ban Chiều”)

Hoặc nữa:

“Trong một cố gắng không dừng lại
Tôi hẹn hò em
Ám hiệu ngắn
9 giờ sáng – góc ngã tư – bờ tường tím – đội nón xanh
Tin đi
Người đi
Cuộc hẹn đi
Thời gian đi

“Và như thế
Trong một cố gắng không dừng lại
Tin mất
Người mất
Thời gian mất

“Chỉ còn lại
Tôi.”
(“Cuộc Hẹn”)

Vẫn với Từ Hoài Tấn, chẳng những không “Ði, Ðứng và chạy… với thời gian” mà ông còn cho thấy chia ly và bóng tối từ những tháng, năm khuất lấp vẫn tìm về trong thơ ông, tựa những game màu ám-dụ, đầy những liên tưởng sắc, buốt; mang theo những lát dao lạnh lùng đào-xới-những-vết-thương cũ, mới:

“Trả lại cho tình em vì không còn cách nào giữ lại em
Khi em đã là người khác
Khi đôi mắt em là ngọn lửa khác
Khi lời tình yêu đã là tiếng vang vọng
Và khi ngày đã trở qua đêm”
(Trích “Chỗ Không Cùng”)

Hoặc:

“Vào những đêm khuya khi vầng trăng không còn
Sao Hôm dần biến mất
Anh tìm em trong bóng mây qua
Ðôi mắt em ẩn chứa niềm bí mật

“Chúng tôi sống lặng lẽ mơ ước trong gió bụi của khốn khổ
Hàng đêm nhìn lên khoảng trời xanh
Thì thầm cầu nguyện và mong đợi phép lạ…”
(Trích “Những Ngôi Nhà Thuê ở Ðường Số 37”)

Tuy nhiên, có dễ mưa mới người bạn hoặc, nói một cách thậm xưng, là người tình thủy chung nhất của nhà thơ này.

Với tôi, mưa là hiện tượng thời tiết quen thuộc, thân thiết của rất nhiều thi sĩ Việt Nam. Nhưng, nếu có một nhà thơ cho thấy mưa hiện diện cùng khắp các trang thơ của họ thì, một trong những người đó là Từ Hoài Tấn:

“Tháng mười hai năm ấy
Mưa trở lại
Trong hẻm nhỏ có quán cà phê
Bà chủ bốn mươi tuổi
Em trở lại ngồi bên ta
Lời tình ái dài và đều như mưa ngoài cửa”
(Trích “Kỷ Niệm”)

…….

“Mùa mưa anh không thoát khỏi chiếc bóng em
Sự suy tư mòn gặm
(…)
“Buổi sáng theo cơn mưa đầu ngày
Một chút nhớ làn khói bay
(…)
“Em thiên nhiên đóa hoa mùa hạ
Những giọt mưa đầu mùa sóng sánh chiếc ly không
(…)
“Ai đi ngang che giấu mặt nõn nường
Mưa vang âm dòng suối”
(Trích “Khi Yêu”)

……

“Buổi chiều mưa bất thường trái mùa
Khúc trầm bên chén trà
Người phụ nữ bước qua bên kia đường đón xe buýt
Dưới tàng cây che phủ vệ đường núp mưa những cô gái nhỏ xì sầm
Cảnh tượng chiều xám”
(Trích “Thơ Cuối Năm”)

……

“Những ngày này thường có cơn mưa đêm về sáng
Ðều đều như lời kinh dịu dàng cám dỗ
Mùa mưa chưa qua sao”
(Trích “Lời Cám Dỗ Dịu Dàng”)

……

“Cơn mưa đi qua ánh sáng của ngày
Khúc hát ru chiều sẩm tối
Người thanh niên đứng trong hẻm cụt nói rằng
Môi hôn trên cây và nụ cười trên gió”
(Trích “Khi Mùa Mưa Bắt Ðầu”)

……

“Buổi chiều về qua ngõ
Không nghe tiếng dương cầm
Vị mặn ở đầu lưỡi
Mưa và em”
(Trích “Là Khi Em Ði”)

……

“Chiếc dù che góc quán nhỏ vệ đường ngồi hai người
Những chiếc ly không đầy nước
Ngày mưa qua
Ðôi mắt ẩm ướt em nhìn ngắm giọt đều không tạnh…”
(trích “Thành Phố Mưa”)

…….

Ngay với những trang thơ không có một chữ “mưa” nào của Từ Hoài Tấn, nhưng ngữ-cảnh toàn bài, cũng cho tôi cảm được đâu đó, hơi hướm những cơn mưa chờ đợi.

Tôi nghĩ, có dễ “mưa,” chiếc bóng thứ hai, đeo đẳng hành trình và, cũng là định mệnh thi ca của tác giả này?

(Calif. Tháng Giêng 2017)

—-
Chú thích
(1) Trích Võ Công Liêm: “Dòng chảy không ngừng ở Từ Hoài Tấn,” Bạt, thi tập “Ði, Ðứng và, chạy… với thời gian,” Nhà XB Hội Nhà Văn, Saigon, 2012

………………………………………………………..

Quê nhà quê người- Biết đâu nguồn cội

                                                                                                                                                                        Lưu Na
Nguồn:nguoiviet.com- February 21, 2017


Phố Hội An. (Nguồn: Tác giả gửi bài và ảnh qua sangtao@org)

Tháng Giêng, đầu năm Tây cuối năm Ta, tôi đi về tất bật trong mưa dầm gió giật, trong cái buồn lạnh của đất trời. Mưa ròng rã lê thê, có những việc cần mà phải hoãn vì không thể hoàn tất, chôn chân ở nhà mà lòng vẫn vui vẫn mừng vì thấy được mưa. Mưa,những năm đầu đến ở đất này trời cũng có những ngày mưa dai dẳng cả tuần lễ như năm nay. Những cơn mưa năm ấy đã là sự cứu rỗi cho kẻ lưu lạc bơ vơ trên xứ người, bởi đó là những lúc tôi tìm được quê nhà như Trần Trung Quân nói: “Ở đâu cũng đất cũng trời thế gian.” Tôi đã qua bao cơn mưa nơi xứ người? Mối hận lòng bị bứt rời khỏi quê hương có bao giờ phai lạt? Gẫm lại, năm tháng tôi sống nơi đất này đã gần gấp đôi tuổi trẻ với quê hương. Tôi đã thôi buồn trước những cơn mưa dẫu quê nhà vẫn là hình ảnh ray rứt hoài trong buồng tim khối óc. Tôi có còn là một người dân Việt?

Câu hỏi nảy sinh khi đọc những dòng chữ của Trương Vấn: Mỗi khi nghĩ và nhớ về buổi chiều Sài gòn với những cơn mưa bất chợt, tôi lại bùi ngùi tội nghiệp cho những người trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại. Họ không có một thành phố của riêng mình,với những quán xá hò hẹn, những con đường bụi bậm đứng chờ nhau mong cho trời đừng đổ mưa để không ướt áo, hay buổi trưa hè chở nhau trên những chiếc xe đạp cũ kỹ, dừng lại bên đường cùng nhau uống chung ly nước mía. (Trương Vấn, Quê Nhà Quê Người, trang 23).

Câu nói tóm gọn cả một thời niên thiếu của tôi, cả một quê nhà của tôi khi bước chân đi.

Tôi rời nhà xa quê năm hai mươi tuổi. Đủ để biết mùi chiến tranh phân cách khổ đau, đủ để có tí tình còm mà thương mà nhớ, có nụ hôn dưới mưa và những lãng mạn ngu xuẩn ngọt ngào làm kỷ niệm cho tuổi vào Thu. Nhưng quê nhà của tôi chỉ có vậy, không đầy ắp những hệ lụy và hạnh phúc như của bậc đàn anh, và nỗi đau bị bứt lìa quê hương cũng không đắng chát như những dòng hoài niệm của Trương Vấn.

Quê nhà của tôi ngoài những dòng đã trích cũng chỉ là những kỷ niệm học trò, những trang sách vàng ố, những buổi lang thang tìm mua sách vỉa hè khi những cuốn báo còn được kẹp bằng những cái kẹp gỗ trên dây thép như thể người ta phơi áo quần, những bi kịch mà tôi may mắn chỉ chứng kiến bên lề chứ không là nạn nhân khổ lụy. May mắn hay đáng tội nghiệp như Trương Vấn băn khoăn?

Trương Vấn khơi cho tôi nhìn lại mình những năm tháng trẻ nơi xứ người. Ở đâu cũng đất cũng trời thế gian, dẫu không có thành phố con đường quán xá của riêng mình, tuổi trẻ xứ người của tôi vẫn đầy ắp những gian nan và hạnh phúc, rất riêng, bởi lãng mạn không là của riêng một xã hội một vùng đất một sắc dân, và lãng mạn là điều bất chợt khởi lên tự mảnh đất mình đang sống tự hoàn cảnh mình đang đeo mang, không có gì cụ thể để phân định ngoài cái lòng bồng bột. Những mối tình của tôi là những mối tình mưa với những người trai cùng huyết thống cùng mang một nỗi đau buồn, không có vỉa hè quán nước đường bụi thì có những đêm biển lạnh căm bên vòng lửa nhảy múa lắt lay, không có tà áo quấn quít bên vòng bánh xe đạp cũ thì có những tấm áo khoác dầy cộm ấp ủ hai tấm thân gầy dưới bóng mưa đêm, không có quê nhà ba mươi năm trở lại thì cũng vẫn đau lòng bắt gặp người xưa nơi góc phố, quán hàng… Cùng với những mảnh hồn phiêu bạt, chúng tôi, những đứa trẻ bị đẩy ra khỏi quê hương không có cái lãng mạn dại dột xuống đường của Trương Vấn, nhưng có những đêm dài lăn tìm con chữ, níu những tiếng những lời của quê mẹ mong trường tồn một dòng giống lưu truyền một quê hương dù chỉ còn trong tâm tưởng, không lãng mạn lắm sao.

Bởi chính nơi con chữ lưu vong xứ người tôi biết rõ một quê hương, biết thương biết hận cho những gì đã mất. Tôi biết cảm kích những người chiến sĩ vô danh đã bỏ mình cho tôi, trong âm thầm quên lãng, tôi biết kính trọng và thương, thương những người “đã cởi bộ quân phục mặc trên người, đủ bình tĩnh để xếp chúng lại thật ngay ngắn phẳng phiu, cẩn thận cột dây đôi giầy trận theo đúng quy cách quân trường, rồi đặt chúng nằm cạnh bộ quân phục,”… “còn nhớ cái bóng của mình đã đứng thật nghiêm, bàn tay trái nắm chặt để ngón cái chạy xuôi theo đùi chân trái, tay phải đưa lên ngang tầm mắt, thật dõng dạc chào một lần cuối những thứ vừa cởi bỏ trên người ở chân cầu Bến Lức khi giọt nắng cuối cùng vừa biến mất…”(trang 63). Họ là Hoàng Diệu, là Nguyễn Thái Học, là lịch sử, mà chính nơi tuổi trẻ xứ người tôi mới có cơ hội để biết. Tôi đã nên người, bằng văn hóa nhân bản xứ tạm dung, thứ văn hóa hội nhập và dung chứa, để dẫu không còn là con dân đất Việt tôi vẫn là người Việt nhờ những dòng lịch sử của đất nước mà tôi học được nơi đất này. Có để làm gì đâu, có được gì đâu hơn là một nỗi ngậm ngùi. Nhưng ở nơi mất gốc mà tuổi trẻ xứ người tôi đã tìm được bản sắc của mình, để như cây tre dẫu tách muôn ngàn gốc phân bủa khắp nơi trên mặt đất đều cùng lúc nở hoa khi tới kỳ và cùng với những lưu dân Việt khi nhắm mắt tôi vẫn nhớ về đất mẹ. Tuổi trẻ xứ người đã biến tôi thành một sắc dân pha giống, cung cách suy nghĩ của người Mỹ mà lòng tràn đầy một quê hương đã mất, rất buồn, nhưng cũng như Trương Vấn, tôi không quên cội nguồn – mà giờ đây biết đâu nguồn cội?

Bởi quê nhà khi tôi về lại không còn là một quê nhà chậm rãi bạc phai. Sắc màu và sự xa hoa quay tít chung quanh xóa nhòa quê cũ, tôi chỉ tìm thấy quê nhà nơi những buổi trưa chậm rầu của những bóng hình đơn lẻ, ăn chén cơm buồn trong thinh lặng giữa bốn bức tường xi măng cốt sắt của nhà cửa thời thoát xác. Tôi lạc trên quê hương mình như Từ Thức lạc trần. Dẫu canh cánh bên lòng mảnh đất quê hương, tôi không dám hay đúng hơn là không muốn,như Trương Vấn, gửi nắm xương tàn nơi đất mẹ, nơi quê nhà,dẫu nơi tôi sống vẫn chỉ là đất quê người.

Đất quê người, chính mảnh đất ấy đã khiến tôi chăm chú giữ gìn chút truyền thống. Những năm tháng ấy tôi phải nửa đêm tấn vào người năm ba lớp áo, bó con trai như bó giò, vặn vẹo với từng cơn gió thốc mà đến chùa đêm ba mươi để thắp một nén nhang bứt một trái quýt mang về để trên bàn thờ cho ngày mới. Có khác gì đâu với cảnh anh dẫn vợ con vượt năm trăm dặm đường mang về một đóa quỳnh, mang về một hình ảnh một kỷ niệm của quê hương. Khi các con gái anh đặt chân lên mảnh đất quê mẹ, con trai tôi đã quanh lại hỏi tôi cái kỷ niệm đi chùa đêm ba mươi của năm xưa – để nó dẫn bạn gái làm một cuộc hành hương. Tôi có thể gọi mảnh đất đã cho tôi sống cuộc sống cũ là đất quê người?

Chúng ta, dẫu đã phân trăm nhánh trăm dòng, vẫn mỗi người mang một mảnh hồn quê mà gieo mà trồng trên xứ lạ, và dẫu vẫn cùng mang một niềm khắc khoải về quê nhà, lại không cùng một cảm nghĩ về quê người. Ai đó đã nói, “ngoảnh lại không còn biết đâu là quê nhà…,” đọc Quê Nhà Quê Người của Trương Vấn chợt thấm thía cái điều “trong cõi riêng buồn thấy lại ta.” (Mai Thảo).
Share this:

………………………………………………………………..

Nguồn: dutule.com-  MỘT BÀI THƠ CŨ –

TÔ THÙY YÊN – Thi Sĩ
04 Tháng Giêng 2017 

Cuộc đời như thế đấy.
Vẫn cặp mắt phô trần,
Không mang kính xậm.
Vẫn thứ mực thông dụng,
Không phải cường toan.
Tôi giựt giành đổ máu với tôi
Từng chữ một.
Những tên cai ngục
Ngôn ngữ bất đồng.
Với thứ linh hồn quốc cấm,
Tôi tù tội chung thân
Giữa bốn tường không khí.

2

Như trong đêm thâu, tiếng bẻ đốt tay,
Tiếng côn trùng bằng phẳng,
Tôi gầy yên lặng với âm thanh.
Bài thơ lọt vào người như kẻ trộm,
Âm thầm
Vơ vét sạch vô tư.
Bằng mỗi lời độc nhất,
Tôi kề tai tiết lộ với từng người
Những điều không lặp lại.
Bài thơ như lá sâm.

3

Người ta lánh mặt tôi,
Một thằng lươn lẹo.
Bài thơ bỗng mất nửa linh hồn,
Ngù ngờ ngôn ngữ ngổn ngang.
Những hòn đá vụn,
Dãy núi cực hình phải đập tan hoang.
Tôi mộng du trên trái đất mòn
Nơi tôi vắng mặt.
Để làm gì ý thức ?
Tôi van nài tôi hãy xót thương tôi.

4

Tôi chạy cắm đầu trên sợi kinh hoàng
Giăng qua đôi bờ vực lạnh hư vô.

Tô Thùy Yên

…………………………………………………..

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics