1.Nhà văn Lê Xuyên- Bài 1,2,3(DTL)*-2.'Tôi và bệnh ung thư' (VB)

Qua ‘Chú Tư Cầu’, định mệnh mở cửa khác cho Lê Xuyên
Nguồn:nguoiviet.com-Friday, February 26, 2016

Du Tử Lê

Le xuyen.jpg1

Nhà văn Lê Xuyên. (Hình: Internet)

Nếu có một người không hề mơ ước hay, toan tính trở thành nhà văn nhưng, lại là một nhà văn nổi tiếng, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, thì đó là trường hợp của nhà văn Lê Xuyên/Lê Bình Tăng, tác giả những tiểu thuyết được nhiều người đọc, biết tới, như “Chú Tư Cầu,” “Rặng Trâm Bầu,” “Nguyệt Ðồng Xoài”…

Căn bản, họ Lê là một người làm chính trị, ông là đảng viên của đảng Ðại Việt, trong nhiều năm, trước khi trở thành nhà báo chuyên nghiệp, rồi trở thành nhà văn trong một hoàn cảnh bất ngờ, ngoài dự trù của ông.

Tôi muốn nói, giống như định mệnh đã chọn ông, để mở cho ông một cánh cửa khác hơn cánh cửa làm cách mạng: Cánh cửa văn chương, chữ, nghĩa.

Theo những tư liệu hiện có trong Bách Khoa Toàn Thư Mở-Wikipedia thì ngay từ khi còn rất trẻ, nhà văn Lê Xuyên đã là một thành viên của đảng Ðại Việt Quốc Dân Ðảng (ÐV/QDÐ) hệ phái Trương Tử Anh. (1)

Sinh trưởng ở miền Nam, ngày 1 tháng 11 năm 1927 tại Phong Ðiền, Cần Thơ, nhưng trước năm 1954, họ Lê đã được đảng của ông cử ra miền Bắc, tham gia sinh hoạt chống thực dân Pháp. Ông bị chính quyền Pháp ở Hà Nội bắt, giam tù nhiều năm…

Sau Hiệp Ðịnh Geneve tháng 7, 1954, vẫn theo lệnh của đảng, họ Lê trở về miền Nam cùng với người bạn đời – – Vốn là một thiếu nữ Hà Nội khuê các; mà, theo nhà báo Ngọc Hoài Phương thì bà vốn có liên hệ gia tộc với nhà báo Hồ Anh/Nguyễn Thanh Hoàng. Chính vì thế mà sau này, cho tới ngày miền Nam bị sụp đổ, nhà văn Lê Xuyên đã giữ nhiều chức vụ quan trọng thuộc tòa soạn những tờ báo do ông Hồ Anh làm chủ, như các tờ Văn Nghệ Tiền Phong, Thời Thế, v.v…

Những năm tháng đầu tiên trở lại miền Nam, với bút hiệu Lê Nguyên (không phải Lê Xuyên), họ Lê đã viết nhiều bài bình luận chính trị, đả kích chế độ Ðệ Nhất Cộng Hòa, thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm mới về nước chấp chánh – – Phản ảnh đường lối chính trị của đảng trưởng Trương Tử Anh thời đó. Những bài bình luận chính trị của ông xuất sắc, có tính thuyết phục cao, tới độ gây khó chịu cho chính quyền. Và, theo nhà báo Hồ Nam/Lê Nguyên Ngư thì Lê Xuyên bị đưa vào nhà giam Chí Hòa vì lý do đó. (2)

Về nguyên ủy trở thành nhà văn của Lê Xuyên/Lê Bình Tăng thì, theo một số tư liệu hiện có trên trang mạng Wikipedia-Mở đã ghi lại, đại ý như sau:

Ðầu thập niên 1960, khi một số nhật báo ở Saigon lên cơn sốt với truyện chưởng “Cô Gái Ðồ Long” của Kim Dung do dịch giả Tiền Phong Từ Khánh Phụng mà, nhật báo Sài Gòn Mai lại chậm chân, không có! Vì thế, nhà báo Vương Hữu Ðức, khi đó là tổng thư ký Sài Gòn Mai, đã yêu cầu họ Lê viết một feuilleton (truyện dài đăng tải mỗi ngày) – đặc biệt về chuyện tình trai gái vùng Nam Bộ. Và, truyện “Chú Tư Cầu” được khai sinh từ đó. (3)

Sinh thời, trả lời một cuộc phỏng vấn về tiểu thuyết “Chú Tư Cầu,” nhà văn Lê Xuyên cho biết, sở dĩ ông mạnh dạn nhận lời vì ông sinh trưởng ở vùng quê miền Nam, bằng vào kinh nghiệm sống, tích lũy những dữ kiện có thật, cộng với những năm tù Chí Hòa, bị nhốt chung với đủ mọi thành phần cặn bã của xã hội, đa số là dân giang hồ, lắng nghe những chuyện họ kể, ông ghi nhận, sắp xếp, rồi đem vào truyện… (4)

Một điểm đáng chú ý nữa là, nhà văn Lê Xuyên cho rằng nếu chủ tâm làm văn chương thì nó sẽ không phù hợp với nhân vật cũng như nội dung truyện. Nói cách khác, nó sẽ không thể là một… “Chú Tư Cầu.” Ông viết thoải mái, dễ dàng, đúng phong cách kể chuyện nhẩn nha, tửng tửng, lững thững, kiểu của một ông già Nam Bộ, nhất là qua các mẩu đối thoại.

Ðặc tính nhẩn nha, tửng tửng thấy rất nhiều trong phần đối thoại của Lê Xuyên, khiến ông được văn giới mệnh danh là người có khả năng viết liên tục 7 ngày mà vẫn “chưa cởi xong nút áo” của nhân vật nữ trong truyện. (5)

Chú thích:

(1) Theo Bách Khoa Toàn Thư Mở-Wikipedia thì, năm 1934, ông Trương Tử Anh, người Phú Yên, ra Hà Nội theo học Luật Khoa, Viện Ðại Học Ðông Dương. Là một người có tinh thần dân tộc, trong thời gian học tập, ông chú ý nghiên cứu nhiều về các triết thuyết, các chủ nghĩa chính trị đang thịnh hành trên thế giới thời bấy giờ. Một trong các tiểu luận chính trị viết từ năm 1935, ông đã nhấn mạnh rằng: “Những triết thuyết, những chủ nghĩa chính trị đương thời đều không thích hợp với dân tộc Việt Nam và đều có sai lầm.” Từ đó, ông manh nha việc xây dựng một chủ thuyết của riêng nhằm định hướng cho những hoạt động chính trị của mình về sau này. Ngày 10 tháng 12 năm 1938, ông Trương Tử Anh công bố một chủ thuyết tư tưởng về triết học và chính trị, gọi là Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn. Chủ thuyết này về sau được các đồng chí của ông phát triển thêm, khái quát thành những điểm chính như sau:

– Con người gồm những bản năng cơ bản là vị kỷ, tình dục và xã hội.

– Ðể sinh tồn thì các bản năng này phải mạnh hơn những cá thể khác.

– Ðể bản năng mạnh mẽ cần có sức mạnh, biến cải và hợp quần.

Tóm lại, để tồn tại, mỗi cá thể phải tạo cho mình sự vượt trội hơn đa số cá thể khác trong xã hội. Mở rộng ra, mỗi dân tộc, muốn sinh tồn phải có được ưu thế tương tranh để vượt lên được dân tộc khác. Ðiều này, về sau được ông nêu rõ trong tuyên ngôn thành lập đảng: “Chúng ta phải nhận thức rằng trên lập trường quốc tế, giữa các quốc gia chỉ có quyền và lợi mà thôi. Mọi hành động của nước này đối với nước khác không ngoài mục đích ấy.”

Suốt thời gian học tại Viện Ðại Học Ðông Dương, Trương Tử Anh đã truyền bá chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn và thu hút được một số bạn đồng chí trẻ. Ngày 10 tháng 12 năm 1939, ông tuyên bố thành lập Ðại Việt Quốc Dân Ðảng và lấy Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn làm nền tảng lý thuyết.

Những đảng viên chủ chốt bấy giờ, có nhiều tên tuổi sau này vẫn còn được dư luận ở miền Nam cũng như hải ngoại, nhắc tới như các ông Nguyễn Tiến Hỷ, Nguyễn Tôn Hoàn, Ðặng Văn Sung, Bùi Diễm, Trần Trung Dung, Phan Huy Quát, Hà Thúc Ký, Hoàng Xuân Tửu, Dương Thiệu Di. Nguyễn Tôn Hoàn v.v…

Ðại Việt QÐÐ lấy ca khúc “Việt Nam Minh Châu Trời Ðông” của nhạc sĩ Hùng Lân (1922-1986) làm Ðảng ca.

(2), (3), (4): Nđd.

(5) Hồ Ông, “Kho báu trong tác phẩm của Lê Xuyên,” Wikipedia Mở.

-o0o-

Lê Xuyên, ‘Tam Kiệt’ của dòng văn chương Nam Bộ
Nguồn:nguoiviet.com-Friday, March 4, 2016

Du Tử Lê

(Tiếp theo kỳ trước)

Nếu không kể những tác phẩm chưa được in thành sách thì, tính từ năm 1965 tới năm 1974, nhà văn Lê Xuyên đã có tất cả 10 đầu sách xuất bản.

Mặc dù gần đây, ở hải ngoại, một nhà văn viết về Lê Xuyên, đã xếp tiểu thuyết của ông vào loại văn chương giải trí; nhưng ngay từ trước tháng 4, 1975, nhà báo lão thành Nguyễn Ngu Í đã liệt họ Lê vào danh sách “Tam kiệt” – – Những nhà văn thuộc dòng văn chương Nam bộ; hiểu theo nghĩa ngôn ngữ, khí hậu, phong cách dựng truyện, nhất là đối thoại trong tác phẩm của họ phản ảnh cực nét đặc tính Nam Bộ từ thời miền Nam còn trong giai đoạn khẩn hoang và, đã tương đối định hình. Hai người kia là các nhà văn Hồ Biểu Chánh và Lê Văn Trương.

bia le xuyen.jpg1
Bìa tiểu thuyết Chú Tư Cầu của Lê Xuyên (Hình: Internet)

Sự kiện này, được nhà văn Nguyễn Ngọc Chính, tác giả của nhiều bài viết công phu về một số văn nghệ sĩ thuộc 20 năm VHNT miền Nam ghi nhận như sau:

“Văn chương miền Nam, khoảng từ 1950 đến 1975, có 4 nhà văn nổi tiếng được mệnh danh là Tứ Ðại Văn Hào Nam Bộ: Hồ Hữu Tường, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc và Lê Xuyên. Ðó là theo nhà thơ Sa Giang Trần Tuấn Kiệt, nhưng theo Nguyễn Ngu Í, Tứ Ðại Văn Hào chỉ còn là Tam Kiệt: Hồ Biểu Chánh, Lê Văn Trương và Lê Xuyên.

“Dù là Tứ Ðại hay Tam Kiệt, họ đã chiếm một chỗ đứng quan trọng trên văn đàn với phong cách viết hoàn toàn Nam Bộ, từ lời ăn tiếng nói đến cách suy nghĩ và hành động. Văn phong của họ khác hẳn với các nhà văn ‘di cư’ từ miền Bắc vào Nam năm 1954 vốn mang nặng hình thức văn chương hoa mỹ theo phong cách Tự Lực Văn Ðoàn và dĩ nhiên lập trường chính trị của họ cũng khác hẳn.

(…)

“Ðiểm nổi bật là trong cả Tứ Ðại lẫn Tam Kiệt đều có mặt nhà văn kiêm nhà báo Lê Xuyên, điều này cho thấy vai trò không kém phần quan trọng của Lê Xuyên trong văn học miền Nam hay nói một cách khác cụ thể hơn là trong ‘văn chương miệt vườn.’ Người đọc văn Lê Xuyên có thể là giới bình dân, lao động, thợ thuyền, nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải kể đến giới trí thức miền Nam, kể cả những người Bắc ‘di cư’ vào Nam năm 1954…”

Họ Nguyễn giải thích thêm rằng: Ðầu thập niên 1960, truyện kiếm hiệp của Kim Dung, đã tạo một cơn sốt trên báo hàng ngày tại miền Nam với những tiểu thuyết “feuilleton” đăng nhiều kỳ trên một số nhật báo. Nổi tiếng nhất là “Cô Gái Ðồ Long” với bản dịch của Tiền Phong Từ Khánh Phụng được đăng trên báo Ðồng Nai năm 1961.

Trong bối cảnh văn chương kiếm hiệp của Kim Dung đang thu hút người đọc vào thời đó thì sự xuất hiện của Lê Xuyên với tác phẩm đầu tay Chú Tư Cầu đã tạo được tiếng vang trên mặt báo dưới dạng tiểu thuyết nhiều kỳ viết theo kiểu “feuilleton” hàng ngày. Một đằng Kim Dung viết theo lối kiếm hiệp được dịch ngay từ nguyên bản đăng trên Hồng Kông Minh Báo… Một đằng là chuyện sông nước miền Tây với những tình tiết éo le và đối thoại mộc mạc, “rặt” kiểu Nam Bộ.

Nhật báo Sài Gòn Mai đăng Chú Tư Cầu trong suốt hai năm liền, từ tháng 2, 1961 đến tháng 2, 1963. Sau đó Chú Tư Cầu được xuất bản thành sách lần đầu tiên vào tháng 3, 1963 tại Sài Gòn. (6) Ðến tháng 4, 2006, với sự đồng ý của bà quả phụ Lê Xuyên, nhà xuất bản Tiếng Vang tái bản Chú Tư Cầu tại hải ngoại…

Trong “Lời Tựa” mở vào tác phẩm “Chú Tư Cầu của Lê Xuyên, nhà văn Mai Thảo (1922-1998) viết:

“Hiện tượng của truyện dài viết từng đoạn, đăng từng kỳ nơi trang trong các nhật báo, như chúng ta đang thấy lan rộng thành một lan rộng bao trùm toàn diện, đẩy hầu hết những cây bút sáng tác chuyên nghiệp hiện nay tới kiếm tìm một văn thể mới, áp dụng một bút pháp mới. Kỹ thuật được mệnh danh là kỹ thuật viết tiểu thuyết cho báo hàng ngày, ở mỗi người viết, phơi bày thành một phong cách biểu hiện khác nhau, nhưng mục đích muốn tới và dụng tâm cuối cùng thì giản đơn và sáng rõ là một.

(…)

“Ở ngòi bút Lê Xuyên và tiểu thuyết Lê Xuyên, vì cũng viết ra trước hết cho báo hàng ngày, chúng ta cũng thấy thấp thoáng sự nhập nội vào văn thể những kỹ thuật ấy. Nhưng Lê Xuyên không chỉ giới hạn khả năng trước tác của mình vào sử dụng kỹ thuật tiểu xảo. Và tiểu thuyết Lê Xuyên thật đông người đọc, tất còn phải chứa đựng, một sắc thái độc đáo nào? Câu trả lời là có. Ðó là không khí, cảnh trí, những khuôn mặt điển hình, những cuộc đời đặc biệt những danh từ địa phương, cùng lối miêu tả sự việc bằng đối thoại cực kỳ linh động chỉ thấy ở tiểu thuyết Lê Xuyên.” (7)

Nhận định về nghệ thuật đối thoại trong truyện của nhà văn Lê Xuyên, tác giả “Ðêm Giã Từ Hà Nội” cho rằng, nhiều người cho truyện Lê Xuyên hay nhất ở những phần đối thoại. Ðối thoại có chuyên chở sự việc, có phân tích tâm lý, nghĩa là có thuật có tả ở trong. Nhận xét trên đúng, và cũng dễ hiểu.

Vẫn theo nhà văn Mai Thảo thì, ngôn ngữ tiểu thuyết Lê Xuyên là thứ ngôn ngữ nói chuyện không biến hình bằng những bút pháp chuốt lọc hay văn hoa bay bướm hơn, cho nên cái khó nhất của nghệ thuật viết truyện là đối thoại thì, Lê Xuyên lại thành công tốt đẹp nhất.

Là người từng viết feuilleton cho một vài tuần báo, nhật báo Saigon trước tháng 4, 1975, tôi thấy, không cần phải được mách bảo, những người nhận viết truyện từng ngày cho các báo đều biết rằng, để “ăn gian” cột báo, nhất là khi tới giờ phải nộp bài cho nhà in sắp chữ thì, cách tốt nhất là kéo dài phần đối thoại của các nhân vật trong truyện. Cũng vì viết hàng ngày, lại không có thời gian đọc lại, nên cảnh nhân vật này “biến hình” thành nhân vật kia, thậm chí có nhân vật đã chết hoặc không biết từ đâu, thình lình hiện ra trong câu chuyện như những bóng ma… trở về từ cõi chết… là “tai nạn” hay xẩy ra cho một số tác giả viết loại truyện này.

Cũng chính vì sự cố tình kéo dài đối thoại đôi khi nhàm chán và, vô nghĩa, nên các nhà phê bình chỉ cần liếc qua một cuốn tiểu thuyết được xuất bản, khi thấy phần đối thoại chiếm số trang lớn trong sách, đã có thể kết luận, thường không sai lắm, về sự thiếu hay, không có tính văn chương, nghệ thuật của cuốn sách ấy.

Nhưng, ở trường hợp của nhà văn Lê Xuyên thì, ngược lại. Ðọc tất cả các truyện của Lê Xuyên, người ta thấy hầu như ông chỉ quan tâm tới tâm lý trai gái miệt vườn trong quan hệ tình cảm của họ mà, không quan tâm nhiều tới phần mô tả cảnh vật thiên nhiên, thời tiết, con người…

Ðiển hình như ngay chương đầu tiên mở vào truyện “Chú Tư Cầu,” đã là những đối thoại liên tiếp:

“Trời đã chạng vạng tối…

“Tư Cầu mới về tới nhà lấy thêm lúa cho vịt ăn. Nói chuyện bá láp một hồi mà trời sụp tối lúc nào không hay! Ðến chừng nghe thiếm Hai má của anh ta hối, anh ta mới hay:

“- Ủa Cầu, mày tính ở đây nói chuyện dần lân riết rồi không chịu đem lúa vô trỏng hả! Bộ mầy không vô gom ba con vịt lại hả?

“- Tui có gởi con Phấn nó coi chừng giùm rồi mà!

“- Ừ gởi! Ðể tía mầy về ổng thấy ổng đả cho mầy một trận rồi mầy kêu trời!

“- Thì đi đây nè…”

Sau một vài mô tả sơ sài, mục đích để chuyển đoạn vào phần đối thoại kế tiếp, họ Lê viết:

“… Chống gần tới chòi giữ vịt của Phấn, một cô gái chăn vịt ở gần đó, Tư Cầu dừng sào lại lấy hơi hú:

“- Ì ì… ì ì ì!

“Phấn nghe vội chạy ra:

“- Sao đợi chừng nầy mới vác mặt ra hả?

“- Chừng này chớ chừng nào nữa!

“- Nói nghe sướng hông! Gom giùm bầy vịt của anh mệt thấy mồ!

“Tư Cầu cười:

“- Nhờ có một chút vậy mà cũng rên!

“- Vậy mà còn nói một chút nữa! À hồi nẫy vịt của tui có một con bị lươn rút ngất ngư, tui làm thịt nấu cháo ở trỏng, một chút anh qua ăn nghen!

“- Ừ qua thì qua, nhưng để dìa coi sóc ba con vịt đã.

“- Tui nói tui gom về đủ hết rồi mà!

“- Gom thì gom chớ cũng phải dìa coi lại cái đã. Còn un muỗi cho con Sấm nữa chi!

(Kỳ sau tiếp)

———-

Chú thích:

(6) Một tư liệu khác, ghi “Chú Tư Cầu” xuất bản năm 1965. Nđd.
(7) Nđd.

-o0o-

Ðối thoại trong truyện Lê Xuyên: ‘Kho báu’ ngôn ngữ Nam Bộ?
Friday, March 11, 2016

Du Tử Lê

(Tiếp theo kỳ trước)

“…Nói xong, Tư Cầu vội vàng chống xuồng về chòi mình, nhưng Phấn kêu giựt ngược lại:

– Nhớ qua nghe hông. À mà anh còn chút dầu lửa nào không cho tui mượn đỡ.

– Hết ráo rồi.

Còn ba cái rọi mù u để chút nữa tao đem qua.

– Qua mau mau nghen!

– Ừa mà!”

(…)

bia le xuyen.jpg2.jpg1
Nhà văn Lê Xuyên. (Hình: sachxua.net)

Hoặc nữa:

“Ngồi nín thinh một hồi, Phấn mới lên tiếng gợi chuyện:

– À anh Tư, anh có biết đến cuối Tháng Chạp này con Thắm nó đi lấy chồng không anh?

– Ừ…

– Ừa!…

Cái gì anh cũng ừ ừ mà không biết cái khỉ khô gì hết!

– Ðừng làm bộ tài khôn hoài mầy! Tao nói ừ là ừ. Con Thắm nó lấy thằng Năm Tôn con ông Biện Dưỡng ở trên kinh Bang Chang bộ tao không biết hả?

– Dữ hông!

Chắc trời mưa nên cóc mới mở miệng!

Tư Cầu hứ một tiếng rồi quăng mạnh cái tàn thuốc ra trước sân chòi.

Phấn lấy cây rọi mù-u gạt bớt tàn để cho thêm ánh sáng và nhích lại gần bên cạnh Tư Cầu. Cô với tay quơ một nhánh củi điên điển vừa dập dập tàn rọi còn lên khói vừa nói:

– Hai vợ chồng con Thắm cũng bằng tuổi tụi mình đó…

Tư Cầu ngước mắt nhìn lại:

– Hứ! người ta chưa ăn chưa ở gì hết mà mầy đã kêu là hai vợ chồng! Sao mày gấp quá vậy Phấn. Mà tụi nó bằng tuổi tao với mầy rồi có sao hông?

– Còn có sao nữa. Người ta cũng như mình mà… vậy đó! bộ anh không biết lo sao?

– Lo cái móc xì gì hả?

Chừng nào tới rồi hãy hay chớ tao không lo gì ráo.

Phấn ngập-ngừng một lát rồi đắm đuối nhìn Tư Cầu và giọng cô ta trầm dịu xuống.

– Bộ anh không… không… nghĩ đến tui hả?

– Thì mầy chình ình ra đó chớ còn nghĩ ngợi gì nữa?

Cô nhích lại gần Tư Cầu thêm một chút nữa:

– Anh nầy nói kỳ quá! Bộ anh không nghĩ tụi mình cũng như… vợ chồng con Thắm sao?

Nghe nói vậy, Tư Cầu ngồi thẳng lưng nhìn Phấn từ đầu đến chân: một gương mặt bầu bĩnh với đôi mắt long lanh, với đôi môi hơi dầy một chút, ướt láng bên ánh lửa rọi chập chờn, đôi cánh tay tròn trịa ló ra khỏi chiếc áo túi cụt tay và một thân mình chắc nịch như thân cây chuối hột…

Tư Cầu như vừa ý và thấy sao dễ chịu trong mình! Anh ta vừa cười vừa nói với Phấn:

– Ừ, mầy coi cũng được!… Ối thôi, tới đâu hay tới đó chớ tao không nghĩ nghiếc gì hết… Còn tía má tao nữa chi?

– Nói như anh vậy hết chuyện rồi! Bộ ai cấm cản tía má anh lo cho anh sao? Còn tụi mình ở đây làm gì hả?

– Coi ba con vịt chớ làm gì nữa!

– Hứ lãng òm! Anh sao vậy hoài… Bộ anh không thấy người ta cũng như mình mà nên vợ, nên chồng, sung sướng tấm thân, bộ anh không… không… muốn, không thèm hả?

– Ý cha thèm! Ừ sung sướng đâu được vài tháng như hai vợ chồng anh Hai tao đó, rồi chưởi bới đập lộn nhau rùm trời, rồi đẻ xòn sọt cả bầy cả lũ để lo chạy gạo cho sói đầu hả?

– Bàn ngang như anh vậy thì nói làm gì cho thêm tổn. Bộ ai cũng vậy hả? Chớ anh không thấy vợ chồng anh Hai tui sao…

Tư Cầu cười lớn:

– Ối thôi, vợ chồng anh Hai mầy thì hết chỗ chê… Thiệt như ếch bắt cặp!

Và Tư Cầu thấp giọng hỏi luôn:

– Ê Phấn, bộ hai ảnh chỉ tối ở nhà bị ai cản mũi cản lái gì hay sao mà tao thấy cứ chạy tọt ra sau vườn chuối xà nẹo với nhau hoài vậy hả?

Phấn nghe hỏi vậy mắc cỡ nhưng thấy thinh thích trong lòng vì Tư Cầu đã hưởng ứng câu chuyện của nó.

Cô ta làm bộ gạt ngang:

– Bậy nà!… Mà sao anh thấy? Anh dóc tổ!

Tư Cầu hấp tấp trả lời:

– Ừ thì dóc! Tao đi bẫy cò ở mấy cái mương sau vườn chuối nhà mày hoài mà sao lại không thấy!

Phấn chêm thêm:

– Bộ anh thấy họ rồi họ không thấy anh chắc?

– Con nầy ngu quá! Bộ mầy nói tao đi ngờ ngờ đó để cho họ thấy hả? Tao còn phải đi rình bẫy cò nữa chớ mầy quên sao? Như vậy họ dễ gì thấy tao được?

– Rồi anh rình ếch bắt cặp luôn?

– Ðâu có mầy! Thì sẵn tao ngồi núp rình bẫy cò tao cũng nín luôn, chớ chẳng lẽ la làng lên hay sao?

Phấn nghe Tư Cầu nói vậy, cười hăng hắc:

– Anh nầy nói nghe ngộ quá ta!

Tư Cầu cũng bắt cười xòa theo, Phấn vẫn chưa chịu buông lơi câu chuyện:

– Bộ anh mà dám ngó họ!

– Tao mà không dám ngó! Thì nó ngờ ngờ trước mắt tao đó mà dám ngó hay không dám ngó gì mầy!

Phấn vẫn chưa chịu tha:

– Vậy anh thấy cái gì anh kể tui nghe coi!”

(…)

(Nđd.)

Cứ thế, tần số đối thoại ngay nơi chương một của truyện “Chú Tư Cầu” gia tăng theo mạch chảy của câu chuyện giữa hai nhân vật.

Tuy nhiên, cách gì thì người đọc cũng không thể phủ nhận khả năng sử dụng ngôn ngữ “miệt vườn” của Lê Xuyên thật hấp dẫn vì lạ lẫm, nhấm nhẳng, có duyên và, phong phú hiếm thấy nơi truyện của các nhà văn Nam Bộ khác.

Người đọc không thể bắt gặp loại ngôn ngữ văn chương “bác học” nào, trong truyện Lê Xuyên, ngoài những ngôn ngữ “bình dân,” hàng ngày như “bá láp,” “nói chuyện dần lân,” “chạy tọt,” “hắt tẹt nước còn,” “bờ xẻo,” “nói nghe sướng hông,” “hết ráo rồi,” “dữ hông”…Ngay khi phải tả thân thể “con Phấn,” Lê Xuyên cũng so sánh với một cách mộc mạc, rất miệt vườn, là hình ảnh của một “cây chuối hột”…

Tôi nghĩ nhiều phần độc giả đã đọc “Chú Tư Cầu” dù ngay từ đầu hay nhảy ngang giữa truyện, đều rất khó kiềm chế ý muốn đọc tiếp vì những đối thoại như đã dẫn chứng.

Phải chăng vì thế mà Thủy Tinh, một người bạn văn trẻ của nhà báo Hồ Ông (8) đã ví đối thoại của nhà văn Lê Xuyên, như một “kho báu” ngôn ngữ Nam Bộ cổ:

“…Trong một lần nói chuyện thân mật với cây bút trẻ Thủy Tinh, mới 37 tuổi, kỹ sư điện toán ở Adelaide, Thủy Tinh cho biết anh rất khoái thứ ngôn ngữ đặc thù của người dân quê Nam Bộ qua các tác phẩm tiêu biểu của Lê Xuyên như Chú Tư Cầu, Rặng Trâm Bầu, Vợ Thầy Hương, Thủy Tinh nói rằng anh đọc sách của Vương Hồng Sển nói về cái thú chơi đồ cổ, anh cũng khoái lắm, nhưng không đủ khả năng tiền bạc để chơi thứ của nhà giàu đó. Nhưng theo anh có một thứ ‘đồ cổ’ vô cùng quý giá không thể để mai một đi và ai cũng có thể ‘chơi’ được – đó chính là thứ ngôn ngữ của người dân quê Nam Bộ như những hạt ngọc quý lấp lánh trong các tiểu thuyết đồng quê của Nhà văn Lê Xuyên. Người ta có thể đọc bất cứ trang nào, cuốn tiểu thuyết nào của tác giả này cũng vẫn dễ dàng bắt gặp…” (Nđd)

(Còn tiếp 1 kỳ)

————

Chú thích:

(8) Nhà báo Hồ Ông hiện cư ngụ tại thành phố Sydney, Úc Châu.

*-NN đặt tựa-

…………………………………………………………………………………………………………..

Tôi Và Bệnh Ung Thư
Nguồn:vietbao.com- 12/03/2016

Trần Văn Sơn

————————–

Tôi Và Bệnh Ung Thư

binh nam.jpg1

Trần Văn Sơn
(bút hiệu Trần Bình Nam)

LTS: Tác giả Trần Bình Nam từ trần lúc 3 giờ sáng Thứ Sáu 11-3-2016, thọ 84 tuổi. Ông cũng là người sinh thời viết bài bình luận thường xuyên trên Việt Báo. Ông có tên thật là Trần Văn Sơn — cựu Trung Tá Hải Quân/QLVNCH, cựu Dân biểu VNCH đơn vị Nha Trang và là cựu Chủ Tịch Tổ Chức Phục Hưng VN. Khi biết bị bệnh ung thư bàng quang (bladder) giai đoạn cuối, ông quyết định từ chối chữa trị và đã vào “chương trình Hospice tại gia” từ đầu tháng 3 năm 2016 chờ ngày ra đi. Như lời tưởng niệm, Việt Báo trân trọng đăng bài cuối của nhà bình luận về cuộc chiến cuôi cùng của ông. Tất cả các bài trước kia của tác giả Trần Bình Nam vẫn còn lưu ở mạng: http://www.tranbinhnam.com/

* * *

Tháng 8/2015 bác sĩ về đường tiểu (urologist) của tôi Jason Lai ở Whittier, Los Angeles bắt đầu đưa tôi vào bệnh viện để thử nghiệm (test) xem tôi có bị ung thư trong bladder (bọc chứa nước tiểu) không. Thỉnh thoảng có máu trong nước tiểu. Cas mổ tương đối đơn giản. Đánh thuốc mê, rồi bác sĩ dùng dụng cụ xuyên qua pennis của bệnh nhân để xem trong bladder có bướu không, và lấy một mẫu tissue gởi đến phòng thí nghiệm (Lab) để chuyên viên xem xét (gọi là biopsy) có tế bào ung thư không.

Quá trình này bác sĩ Jason Lai đã làm một lần với tôi vào tháng 6/2014 và không thấy gì. Qua năm 2015, từ đầu năm thấy nước tiểu có máu, ông ta cho rằng vì tôi uống thuốc Coumadin để phòng ngừa “stroke” (tôi bị chứng tim đập không đều, gọi là Atril Fibrillation) từ nhiều năm trước nên ông chần chừ không làm biopsy để tìm tế bào ung thư.

Thật ra các urologists ở San Diego (nơi tôi ở từ năm 2006 đến 2009) đã thấy cái bladder của tôi không bình thường. Nó có một cái bọc nhỏ (gọi là cái diverticulum) trồi ra từ bladder. Cái bọc nhỏ giam nước tiểu lại không cho thải ra bình thường, do đó dễ bị nhiễm trùng và là cơ hội để tế bào ung thư xuất hiện. Để đề phòng ung thư các bác sĩ đều khuyên cách tốt nhất là mổ cắt bỏ cái diverticulum đi. Cas mổ này quan trọng như mổ tim nên tôi ngại chần chờ không làm.

Trở lại sống ở Los Angeles County, thời gian 2009-2011 ở Redondo Beach với con gái, cái bladder chỉ thỉnh thoảng ra máu nhưng không gây ra vấn đề gì nghiêm trọng. Thời gian từ tháng 3/2011 tôi về ở Norwalk, bác sĩ urologist Jason Lai săn sóc tôi, và giữa năm 2014 Cas biopsy không tìm thấy gì ông càng yên tâm cho rằng thỉnh thoảng nước tiểi tôi có máu là chuyện “local” do uống Coumadin thôi.

Tôi có kinh nghiệm uống thuốc Coumadin hơn 7 năm. Tôi theo dõi liều lượng kỹ lưỡng và kiểm tra độ loãng của máu nên tôi biết trường hợp máu trong nước tiểu của tôi không thể do Coumadin mà ra. Bác sĩ Jason Lai thì cứ yên chí như vậy nên từ đầu năm 2015 ông cứ tìm cách trì hoãn mỗi lần tôi xin làm biopsy tế bào trong bladder và diverticulum. Một trong những lý do khác để ông trì hoãn là mới làm biopsy tháng 6 năm 2014.

Cuối cùng đến tháng 8/2015 bác sĩ Jason Lai quyết định làm biopsy, và ngày 1/9/2015 ông cho biết có tế bào ung thư trong diverticulum. Sau đó ông đưa tôi đi làm CT SCAN abdomen và pelvis (bụng dưới và xương chậu) và thấy các bứu ung thư của tôi từ diverticulum đã “di căn” qua Abdomen và Pelvis: một ở Abdomen và 2 ở Pelvis. Tôi đặt tên các bứu đó là D (trong Diverticulum), A (Abdomen), và PR, PL (Pelvis Right, Pelvis Left) là hai bứu Pelvis. Mức độ của căn bệnh được các bác sĩ trong team chữa trị đánh giá: ung thư “độc”giai đoạn 4.

Một chương trình chữa trị được hoạch định do bác sĩ ung thư (oncologist) Jack Freimann cầm đầu và chữa trị tại Viện Ung thư The Oncology Institute of Hope & Innovation ở thành phố Whittier, Los Angeles.

Để tránh cho bạn bè, thân hữu khỏi quan tâm khi chưa có gì phải quan tâm tôi không thông báo tin bệnh cho bất cứ ai kể cả bạn thân, thân nhân, ngoại trừ các con tôi. Tôi cố gắng duy trì các sinh hoạt bình thường.

Chương trình chữa trị bắt đầu bằng “hóa trị”, các phương pháp khác như “xạ trị” (radiation) và mổ cắt bỏ bộ phận ung thư (surgery) dùng hay không tùy theo kết quả của hóa trị. Hóa trị (chemotherapy) là cách chữa trị dùng hóa chất bơm vào mạch máu. Tùy theo lượng thuốc thời gian mỗi lầm bơm từ 1 đến 1:30 phút. Khi bơm thuốc bệnh nhân nằm hay ngồi tùy ý và cách vào thuốc giống như khi bạn được vào nước biển quen thuộc. Tác hại phụ (side effects) thông thường nhất và đến nhanh nhất là nôn mữa, nên trước khi vào thuốc chính bác sĩ cho thuốc chống nôn mữa vào trước. Đây là cách chữa “dĩ độc trị độc” dùng hóa chất để giết các tế bào ung thư không cho nó nẩy nở. Nhưng tác hại (side effects) là cùng lúc giết các tế bào ung thư nó cũng đánh phá các tế bào tốt khác làm cho bệnh nhân yếu đi mà dấu hiệu quen thuộc là rụng tóc, ăn uống không ngon và xuống cân.

Lịch trình chữa trị là mỗi kỳ gồm 2 đợt (cycles) hóa trị, mỗi đợt 3 lần trong 3 ngày liên tiếp. Sau 3 tuần tiếp tục đợt thứ hai. Như vậy, sau mỗi đợt, bệnh nhân được nghỉ ngơi 3 tuần để chịu đựng những “side effects” thông thường như đau bụng, mệt mỏi, mất ngủ, táo bón và sốt. Sau mỗi kỳ, bác sĩ đưa đến Viện Quang tuyến (Radiology) để làm CT SCAN, một kỹ thuật giúp khám phá xem hai đợt hóa trị có kết quả gì không? Mỗi kỳ chữa trị từ khi bắt đầu đến khi làm SCAN kéo dài 6 tuần lễ. Sau đó tôi gặp bác sĩ chữa trị, nghe ông ta duyệt kết quả và cho biết tiếp tục chữa trị hay không, có thay đổi thuốc hay không.

Quá trình hoá trị của tôi khởi đầu tại Los Angeles ngày 22/9/2015 tiến triển thuận lợi. SCAN ngày 23/10/2015 thấy các bứu cancer được co lại.

Theo lời khuyên của bác sĩ Freimann các đợt hóa trị tới tôi sẽ cần sự săn sóc của gia đình chớ không thể vừa chữa trị vừa sống một mình như tôi đang sống ở Norwalk, Los Angeles County. Các con tôi sắp xếp đưa tôi về San Diego ngày 1 tháng 11, 2015. Sự chuyển đổi này rất nhiêu khê vì phải chuyển bảo hiểm sức khỏe sao cho rập khuôn, không làm trì hoãn việc chữa trị của tôi.

Tôi về thành phố San Diego, chọn Scripps làm trung tâm y khoa chính với tất cả các bác sĩ trong team săn sóc tôi đều ở trong Scripps. Vị bác sĩ chữa ung thư là bác sĩ Michael Kosty.

Hai đoàn bác sĩ chữa trị Los Angeles và San Diego trao đổi chi tiết y khoa với nhau và bác sĩ Kosty quyết định tiếp tục liều lượng chữa trị như ở Los Angeles.

Kỳ chữa trị này khởi đầu ngày 9/11/2015 và SCAN ngày 18/12/2015 cho thấy bứu A và bứu PL đã bị diệt, chỉ còn bứu PR chưa nhúc nhích. Ngoài ra bứu D thay vì co lại thì lớn ra đôi chút. Bác sĩ Kosty không có ý kiến gì, nhưng bác sĩ Ramdev Konijeti, urologist kiêm oncologist, thì không lạc quan lắm.

Tôi bước vào kỳ chữa trị thứ 3 ngày 4/1/2016 sau hơn một tuần lễ trì hoãn vì lễ cuối năm, và làm SCAN ngày 22/2/2016 cũng trễ vì lý do sức khỏe.

Ngày 29/2/2016 (leap day) tôi và con gái Phương Tâm và con rể Paul Shaper gặp bác sĩ Kosty để bác sĩ duyệt SCAN cuối cùng và thảo luận về đối sách. Kết qủa là các bứu cancer của tôi vùng lên chống lại thuốc. Bứu D lớn lên rất nhanh, bứu PL bị diệt nay lớn trở lại, và bứu PR thì lớn như thổi. Ngày hôm sau (1 tháng 3) tôi và Phương Tâm gặp thảo luận thêm với bác sĩ Ramdev Konijeti.

Cà hai buổi thảo luận đều đi quanh hai giải pháp: (1) tiếp tục chữa trị với thuốc mới Opdivo đang được FDA thí nghiệm, hoặc (2) không chữa trị gì cả.

Bác sĩ Kosty cho tôi một tuần để suy nghĩ, cân nhắc và chọn giải pháp. Với căn bệnh cancer “dữ” này, tôi nghĩ tiếp tục chữa trị với thuốc mới Opdivo cũng chỉ kéo dài thời gian cơ thể phải chịu đựng “side effects” của sự chữa trị và sẽ không thay đổi gì kết quả cuối cùng, ngoại trừ kéo dài những ngày sống trong bệnh hoạn.

Do vậy tôi quyết định không tiếp tục chữa trị và chính thức thông báo bác sĩ Bác sĩ Kosty hôm 2 tháng 3. Bác sĩ Kosty ước lượng tôi có 6 tháng nếu không chữa trị gì nữa và vào chương trình hospice tại gia để được săn sóc khi đau đớn (pain).

Tôi vào chương trình “hospice tại gia” do Scripps Hospice phụ trách tại địa chỉ 14184 Stoney Gate Pl. San Diego, CA 92128 Tel: (858) 592-8814 từ đầu tháng 3/2016.

Bài viết này được Post vào Home Page của tôi có hai mục đích:

1. Thông báo bà con, bạn bè, thân hữu về tình trạng sức khỏe của tôi.

2. Trao đổi một ít kinh nghiệm với các đối tượng ung thư, nhất là ung thư bladder.

Bài víết này chỉ còn một dòng cuối thông báo ngày kết thúc chương trình “hospice” của tôi.

Đây là dòng cuối từ các con của ông Trần Bình Nam: Ba của chúng con đã kết thúc chương trình “hospice” trong một giấc ngủ nhẹ nhàng sáng ngày 11 tháng 3, năm 2016.

Trần Văn Sơn
Bút hiệu Trần Bình Nam
8 March, 2016
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com

…………………………………………………………………….

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics