1.Từ Vũ Thư Hiên, tới Chekhov(DTL)2.Truyện ngắn Vũ Thư Hiên và kỹ thuật ..(DTL)3.Thư gửi nhà văn Văn Quang(ĐMD)-

Từ Vũ Thư Hiên, tới Chekhov

Du Tử Lê/Người Việt
Nguồn: nguoiviet.com- June 23, 2017


Nhà văn Vũ Thư Hiên. (Hình: Facebook Vũ Thư Hiên)

Trước Tháng Tư, 1975, ở miền Nam Việt Nam, việc xuất bản một tác phẩm, thí dụ một tập thơ, hay truyện, là một việc không đơn giản, nếu không muốn nói là rất nhiêu khê cho những ai không ở trong nghề – từ việc xin giấy phép xuất bản, tìm nhà in. Nhờ ai đó, trình bày bìa, thuê sắp chữ (bằng tay)… Sau đó, tìm nhà in.

In xong, mang một số sách tượng trưng, theo quy định, trở lại Bộ Thông Tin, gọi là nộp bản. Mục đích, để cơ quan hữu trách có thể kiểm soát xem giữa bản thảo đã nộp trước đấy cho Bộ Thông Tin và bản in ra, không có gì sai biệt? Sau đấy, tác giả phải lo tới công việc tìm nhà phát hành, nhờ họ gửi sách đi khắp nơi. Trên thực tế, không phải tác phẩm nào in ra, cũng được các nhà phát hành nhận phát hành. Trở ngại này, cũng góp phần vào việc giới hạn số lượng sách được xuất bản.

Tuy nhiên, khi người Việt tới định cư tại Hoa Kỳ, được hưởng những ưu đãi của xứ sở này dành cho lãnh vực thông tin, văn hóa… Nên nhà văn, nhà thơ, các nhà nghiên cứu, biên khảo của chúng ta, bất cứ ai cũng có thể tự in sách của mình một cách dễ dàng. Với thời gian, sự kiện này được ghi nhận là lạm phát. Riêng tại miền Nam California đã từng diễn ra cảnh một nhà thơ hay nhà văn có tác phẩm mới, mang ra quán cà phê, gặp ai cũng “ưu ái,” “ân cần” tặng cho một hoặc hai cuốn sách làm kỷ niệm. Nhiều người dở khóc, dở cười vì từ chối thì thiếu tế nhị mà, mang về thì chỉ thêm rác nhà.

Ở trường hợp này, có người phải chọn giải pháp “vô tình bỏ quên” cuốn sách “được tặng,” ở bàn cà phê; để sau đấy, người phụ trách việc dọn dẹp sẽ vứt bỏ vào thùng rác.

Đây không phải là nguyên nhân chính đưa tới sự co cụm, lãnh vực xuất bản sách ở hải ngoại. Nhưng tính vàng thau lẫn lộn, dẫn tới sự rẻ rúng vừa kể – phần nào, cũng đã ảnh hưởng thị trường sách vở. Không ít người đọc đã tỏ ra mất tin tưởng, thất vọng trước hiện tượng này. Trong quá khứ, những nhà xuất bản, nhà sách chủ trương cung cấp những món ăn tinh thần chọn lọc cho người đọc, đã phải lần lượt đóng cửa! Như nhà sách và, xuất bản Văn Nghệ của ông Võ Thắng Tiết. Nhà sách và, xuất bản Văn Khoa của Giáo Sư Đỗ Đình Tuân…

Trong vòng một thập niên trở lại đây, không biết có phải nhận thấy thị trường sách vở dù bị co cụm, thì ở mạch ngầm, nó vẫn là một nhu cầu tinh thần không thể thiếu của số người đọc thầm lặng; và, bởi thế, công ty nhật báo Người Việt, đã cắt cử một bộ phận chuyên trách việc thực hiện, ấn hành những tác phẩm giá trị; dù kén độc giả.

Nhưng, thật bất ngờ, khi thực tế lại cho thấy điều ngược lại: Rất nhiều tác phẩm những tưởng “nhức đầu,” khó nuốt như “Đứng Vững Ngàn Năm” của Ngô Nhân Dụng; “Đèn Cù” của Trần Đình Đĩnh, “Lời Ai Điếu” của Lê Phú Khải… Và gần nhất là “Tuyển Tập Truyện Ngắn Vũ Thư Hiên” lại là những tác phẩm có số bán kỷ lục trong thời buổi văn chương bị coi là “mạt vận” này.

“Tuyển Tập Truyện Ngắn Vũ Thư Hiên” một tuyển tập như những bức tranh xã hội chìm, khuất, được nhiều người chờ đợi. Trong số những độc giả thầm lặng chờ đợi đó, có tôi.

***

Tôi chỉ đọc, biết Vũ Thư Hiên vào khoảng cuối thập niên 1997, khi được ông Võ Thắng Tiết, tặng cho cuốn “Đêm Giữa Ban Ngày.” Hồi ký chính trị của một người không làm chính trị Vũ Thư Hiên. Chủ nhân nhà xuất bản và cũng là nhà sách Văn Nghệ, nhắc tôi, nên đọc và nếu có thể, giới thiệu rộng rãi cho độc giả Việt Nam. Thời gian đó, tôi còn phụ trách bản tin Văn Học Nghệ Thuật hằng tuần cho Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA).

Tôi nhớ, rất bất ngờ với tôi, khi tôi bị cuốn vào cuốn hồi ký với số trang dày hơn 800 trang. Tôi đọc say mê, liên tục ngày, đêm.

Là người dốt nát về phương diện chính trị, tôi không biết gì về những dữ kiện (đúng/sai), được họ Vũ ghi lại trong “Đêm Giữa Ban Ngày,” điểm tôi chú ý nhất trong hồi ký đó, là tính lạc quan, (đôi chỗ châm biến), nhưng không hận thù, không sắt máu, không đằng đằng sát khí, nhất định đòi phải tiêu diệt tới tên Cộng Sản cuối cùng. Mặc dù, họ chính là những người đã ra lệnh bỏ tù không xét xử, tác giả cũng như thân phụ của tác giả (một người có công lớn với chế độ Cộng Sản ngay khi còn phôi thai). Chi tiết này, với tôi, cho thấy đó là phong cách mang tính nhân văn cao của họ Vũ.

Từ “đường dẫn” “Đêm Giữa Ban Ngày” tôi tìm đọc tập truyện “Miền Thơ Ấu” – một tác phẩm đẹp, lấp lánh nhiều hạt sương thi ca, viết về tuổi thơ của họ Vũ – một tuổi thơ nhìn từ một xóm đạo nhỏ bé, gần như bị lãng quên ở miền Bắc; được tác giả ghi lại với nhiều tập quán dân gian cổ truyền, phản ảnh phần nào nền văn hóa nông thôn Việt Nam, thời hậu bán thế kỷ 20.

Với bệ phóng “Đêm Giữa Ban Ngày,” “Miền Thơ Ấu,” rồi “Hoa Hồng Vàng” (dịch năm 1960, từ tiếng Nga của nhà văn Paustovsky), “Trắng Trên Đen” dịch từ nguyên bản tiếng Nga của Gonzalez-Gallego, năm 2005, hoặc tập truyện ngắn “Chuyện Ở Tỉnh Lỵ” do Việt Tide xuất bản năm 2003.

Tôi cũng tìm và, đọc được một số truyện ngắn rải rác khác của Vũ Thư Hiên; như các truyện “Nấm Mồ,” “Hoa Cúc Dại,” “Lời Xưng Tội Lúc Nửa Đêm,” “Khai Bút” hay “Ác Mộng”… Tất cả những truyện ngắn hay tự sự kể này của họ Vũ, đều có trong “Tuyển Tập Truyện Ngắn Vũ Thư Hiên” và cũng là những truyện ngắn khiến tôi cay mắt khi đọc tới dòng chữ cuối.

Tôi không biết có phải vì lý do bệnh hoạn hoặc, vì tuổi già, ở tôi đã bắt đầu những “ló dạng bất tường!” Thí dụ, từ hồi nào giờ, tôi đã sớm bị một câu thơ của Nguyễn Khuyến trong bài ông khóc Dương Khuê: “Tuổi già hạt lệ như sương” ám ảnh. Vậy mà, cớ gì, tôi lại rất dễ chảy nước mắt, khi đọc truyện ngắn Vũ Thư Hiên?

Thế giới truyện ngắn Vũ Thư Hiên, qua “Tuyển Tập Truyện Ngắn Vũ Thư Hiên” với tôi, là cả một giai đoạn lịch sử cận và hiện đại, được vẽ lại (bằng chữ) của một văn tài mà, không ít người đã so sánh ông với nhà văn Chekhov (1).

Có dễ vì ngoài số lượng truyện ngắn phong phú có được, hai ông còn gặp nhau ở đặc điểm: Không một khía cạnh xã hội nào bị bỏ quên. Từ thân phận người dân ở đáy cùng xã hội, tới những bi kịch chiến tranh (nhìn từ các góc khuất)… tới những “bạo chúa” của thời đại mới…

Riêng với Vũ Thư Hiện, còn cho người đọc ông, những chuyện kể ngậm ngùi, xúc động về cảnh đời thực của những văn nghệ sĩ thế hệ trước, hoặc cùng thời với ông, như Văn Cao, Nguyễn Tuân, Hồ Dzếnh, Phạm Tăng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Khải, Nguyễn Sáng… (2)

Du Tử Lê

(Còn tiếp)

—-

Chú thích:

(1) Theo tư liệu của trang mang Wikipedia-Mở thì, Chekhov sinh ngày 29 Tháng Giêng 1860, tại thị trấn Taganrog, miền Nam nước Nga, nơi cha ông làm chủ một cửa hiệu tạp hóa nhỏ. Năm 1879, ông theo học ngành y tại Đại Học Quốc Gia Moskva. Ở đây, ông bắt đầu vẽ biếm họa cho một số tạp chí hài để hỗ trợ gia đình. Sau khi tốt nghiệp năm 1884, Chekhov hành nghề y nhưng vẫn tiếp tục sáng tác. Đến năm 1887, văn tài của ông đã được chấp nhận rộng rãi, và việc sáng tác không cho phép ông dành nhiều thì giờ cho y khoa nữa.

Thời kỳ từ 1886 đến 1888 là giai đoạn Chekhov chuyển tiếp từ thể loại truyện ngắn khôi hài dưới 1,000 chữ qua những truyện ngắn dài hơn, có chủ đề nghiêm túc hơn và văn phong chững chạc hơn. Những truyện ngắn trong thập niên 1890 đem lại một cái nhìn rộng lớn về xã hội nước Nga cuối thế kỷ 19, miêu tả sự chính xác về xã hội của cuộc đời những nông dân, trí thức, tư thương, giáo sĩ, phụ nữ và trẻ em trong những bối cảnh có tính phổ cập và bất biến với thời gian.

Chekhov bị bệnh lao, và năm 1897 ông phải dời đến cư ngụ ở vùng ấm áp Yalta, nằm kề Biển Đen. Năm 1901, ông kết hôn với nữ diễn viên Olga Leonardovna Knipper. Thời gian này, sức khỏe của ông đi xuống dần. Ông qua đời năm 1904 ở khu nghỉ mát Badenweiler tại Đức trong khi đang tìm cách chữa trị…

Chekhov được xem như là người đã nâng thể loại truyện ngắn lên một tầm cao mới trong nền văn học Nga, và dần dần trong nền văn học của thế giới (…)

Về mặt nghệ thuật truyện ngắn của Chekhov có chiều sâu tâm lý rất lớn, lột tả rất xác thực các tinh tế nội tâm đặc trưng của các tầng lớp người Nga thế kỷ 19 nhất là thành phần thị dân, trí thức trung lưu và thợ thuyền trong các thành phố đang hình thành của nước Nga, nên có thể nói Chekhov là nhà văn của tầng lớp thành thị Nga. Ngôn ngữ của truyện ngắn Chekhov rất tinh tế đã nâng tiếng Nga, lên tầm hiện đại và làm giàu rất nhiều cho loại ngôn ngữ này. Ông là nhà văn đã để lại ảnh hưởng rất lớn lên văn học và văn hóa Nga cũng như trong văn học thế giới.

(2) Cũng là nhà văn, nhưng xin đừng lầm với Nguyễn Quang Sáng (1932-2014) mà, bằng hữu ông, thường gọi ông một cách thân mật là “Sáng Lùn.”

…………………………………………………….

Truyện ngắn Vũ Thư Hiên và kỹ thuật ‘vườn không nhà trống?’

Du Tử Lê/Người Việt

Nguồn:nguoiviet.com- June 30, 2017


Nhà văn Vũ Thư Hiên. (Hình: Facebook Vũ Thư Hiên)

(Tiếp theo kỳ trước)

Trong một cuộc “trò chuyện trên mạng” cách đây khá lâu, tác giả “Miền Thơ Ấu” cho biết, ông không có tài hư cấu, tức khả năng tưởng tượng mạnh mẽ, dữ dội để dùng nó như xương sống cho những truyện ngắn của mình.

Tôi không biết có phải, thực tế, một đời thường của Vũ Thư Hiên vốn sớm bị ám ảnh bởi săn đuổi, rình rập, từ khi còn còn ấu thơ? Tới lúc trưởng thành, lại bị những người mà ông từng coi là “đồng chí” truy nã? Nên ông đã dư thừa những chuyện mà trí tưởng tượng trung bình, không thể nghĩ tới thì, có nghĩa gì những hư cấu vụn vặt?

Tôi cũng không biết có phải vì “vốn sống” của họ Vũ ngồn ngộn những dữ kiện tươi rói cay đắng, chập chờn sống, chết hay không, mà hầu hết truyện ngắn của ông gần như không có phần tả tình, tả cảnh, quen thuộc của những truyện ngắn để chuẩn bị cho sự bước ra sân khấu của những dữ kiện làm thành máu thịt của chuyện?

Hình như họ Vũ không có thói quen “vờn bóng.” Ông đi thẳng vào câu chuyện của mình, như sợ nếu dông dài, sẽ chỉ khiến tốn giấy mực một cách không cần thiết? Chưa kể sự lan man, nhiều phần sẽ làm cho yếu tố cấu thành chuyện của ông, sẽ bị pha loãng hoặc, biến dạng khi cảm xúc dẫn nhà văn tới những viễn cảnh ngoài ý thức chọn lựa.

Theo ghi nhận của tôi, truyện ngắn của Vũ Thư Hiên không được dựng trên những cao trào hay, những nút thắt, nút mở… Ở nhà văn được coi là một trong những bậc thầy về truyện ngắn này thì sự nhẩn nha, bình thản của ngòi bút, dù cho tác giả ở vai người chứng (kẻ quan sát) hay người trong cuộc, chúng vẫn là một thứ khí hậu truyện, phẳng lặng, không dự báo giông bão… Cho tới khi người đọc bước tới những dòng chữ cuối của truyện… Khi đó, bất ngờ, bên ngoài chờ đợi, sẽ mang đến độc giả một trong hai tình huống:

-Gấp sách lại. Ngỡ ngàng. Thở dài. Tự hỏi: Có thể có chuyện như thế sao?

-Hoặc, không kịp gấp sách lại, những con chữ đã nhòe đi, vì nước mắt (nếu bạn là người đọc nhạy cảm).

Tôi muốn dẫn chứng cụ thể bằng truyện ngắn “Nấm Mồ” in trong “Tuyển Tập Truyện Ngắn Vũ Thư Hiên” từ trang 449 tới trang 463. Ở truyện này, họ Vũ đóng vai “người chứng” – kẻ quan sát. Người ghi nhận. Mỗi lần đọc lại, tôi đều có những rung động, như lần đầu.

Mặc dù ngay dòng chữ đầu tiên của “Nấm Mồ,” họ Vũ “dội nước lạnh” cảnh báo người đọc: “Câu chuyện tôi kể ở đây không dài, lại không có những diễn biến đan xen, bất ngờ, khả di dắt dẫn người đọc tới những suy đoán mung lung, đặng tạo ra sự lôi cuốn. Vì lẽ đó, nó sẽ không thú vị, hoặc kém thú vị, tính theo chuẩn văn chương quen thuộc. Xin rào trước một câu như thế để người viết khỏi bị những phiền toái về sau (…) Nó là câu chuyện kể, không cần các thủ pháp tả tình, tả cảnh. Nói tóm lại, tôi thấy sự can thiệp của thói quen viết văn chỉ làm câu chuyện mất đi cái mộc mạc của nó. Mà đấy lại là cái tôi muốn giữ…”

“Rào đón” của họ Vũ, với tôi, cũng là một thủ pháp văn chương mà chỉ những nhà văn có niềm tự tin thượng thừa nơi khả năng vận hành truyện mới dám dùng đến. Tôi muốn gọi đó là một thứ kỹ thuật “dàn cảnh vườn không nhà trống.”

Kỹ thuật báo trước cho người đọc biết rằng: “Này, đừng đọc truyện này nhé. Nếu quý vị có thói quen đi tìm những câu chuyện éo le, nhập nhằng giữa những yêu đương say đắm, rồi phản bội, chia tay đầy nước mắt… Những thứ đó, không có trong chuyện của tôi. Chuyện tôi kể tự thân nó không một chút hấp dẫn, thú vị nào hết.”

Trái ngược với thủ thuật của một số nhà văn, trước khi vào truyện đã “đe dọa” người đọc rằng: “Đây là sản phẩm của trí tưởng tượng, nếu chẳng may câu chuyện có trùng hợp với tên tuổi hoặc nơi chốn của ai đó, thì đấy là điều nằm ngoài dự trù của tác giả…”

Bằng vào tập quán “kiệm lời,” một đặc tính văn xuôi Vũ Thư Hiên, tác giả đã giới thiệu ngay, nhân vật thứ nhất của “Nấm Mồ,” tên Tâm. Bạn thân của em gái ông từ thời thơ ấu. Chồng trước, chết trong chiến tranh, với chồng sau, Tâm mở công ty buôn bán đồ gia dụng, thương vụ phát đạt.

Nhân vật thứ hai của “Nấm Mồ” là: “Một cựu binh chân thọt, tên Mịch, làm nghề sửa xe đạp. Cũng là người cùng phố với Tâm, sống trong con hẻm, gia đình khá túng bấn. Chị vợ đạp máy khâu cho một cửa hàng may mặc. Anh chồng hình như bị nhiễm chất độc da cam, trong cuộc chiến, hai vợ chồng lấy nhau nhiều năm rồi mà chẳng được mụn con nào. Dù mất một chân trong chiến đấu, nhưng vì lẽ gì đó, anh không được công nhận thương binh. Còn một nhân vật nữa, chồng sau của Tâm, tuy không đóng vai trò đáng kể, nhưng cũng không thể vắng mặt trong câu chuyện…” (“Nấm Mồ,” trang 449-450).

Chỉ với một số lượng chữ rất giới hạn, tác giả đã giới thiệu đầy đủ thân thế, quá khứ, sự nghiệp của hai nhân vật chính, cùng tương quan, hoàn cảnh sống của mỗi người. Và, “vai trò không đáng kể” của nhân vật thứ ba, “nhưng cũng không thể vắng mặt trong câu chuyện” – chồng sau của Tâm.

Ngay sau đấy, dường để nhấn mạnh tính khách quan của người chứng, họ Vũ viết thêm: “Khi các nhân vật, từng người một, kể tôi nghe câu chuyện, họ đều xưng ở ngôi thứ nhất. Tôi thấy cứ ghi lại đúng như cách họ kể là tốt nhất, chỉ lược đi những chỗ rườm rà, tức là có bớt chứ không thêm.” (“Nấm Mồ,” trang 452).

Với “lý lịch trích ngang” này của hai nhân vật, chẳng những không hứa hẹn một “đột biến” nào cần thiết cho câu chuyện mà, nó chỉ làm cho đường vào chuyện thêm khô nẻ, ngao ngán…

Nhưng, tôi không hiểu vì sao hay từ đâu, ẩn sau những con chữ tưởng chừng lạnh lùng, vô cảm kia, lại có một sức hút kỳ lạ. Tôi muốn nói, những ai đã “bắt” vào “Nấm Mồ” cũng như đa số truyện ngắn khác, của Vũ Thư Hiên, đều rất khó “buông” ra. Nghệ thuật hay “ma thuật” chữ, nghĩa của họ Vũ, năm ở chỗ đó (?)

Cũng vậy, khi đọc thêm ít trang “Nấm Mồ,” người ta mới biết, Tâm và người chồng mới rất muốn tìm ra nơi chôn xác của người chồng cũ, tên Tường, thuộc “bên thắng cuộc” – đi “B.” Chết ở miền Nam. Chồng mới của Tâm, cũng thuộc “bên thắng cuộc,” nhưng lại có quan niệm rất “tâm linh” là “… Vợ chồng mình sống với nhau được như vậy là nhờ anh ấy phù hộ. Mình không được quên. Anh ấy mất, mồ mả không biết ở đâu, mình phải tìm cho bằng ra để đưa anh ấy về em ạ” (“Nấm Mồ,” trang 452).

Lòng thành của hai vợ chồng, đã khiến họ tốn rất nhiều tiền cho các nhà “ngoại cảm.” Đều không kết quả gì. Cuối cùng, họ được giới thiệu về Mịch – hàng xóm, cùng ngõ. Kẻ từng tham dự với Tường, trong trận đánh cuối cùng với Tường ở miền Nam.

Tác giả không cho biết ngay, tại sao Mịch lại im lặng bao nhiêu năm khi biết rõ Tâm là vợ bạn cùng chiến đấu với mình. Cho tới khi bị một thương binh khác, ở Hà Nội, “điểm chỉ”… Mịch mới nhận lời dẫn vợ chồng Tâm đi tìm xác chồng.

Từ đây, trận bão mới được cảm thấy qua lời thuật của Mịch với họ Vũ: “… Trung đoàn đã rút sau khi đẩy địch về phía bìa rừng. Chúng tôi còn hai trung đội đoạn hậu, không ngờ đụng đơn vị địch vừa điều đến bổ sung, thế là rơi vào thế bị bao vây. Rừng che chắn cho cả hai bên. Đạn bắn rào rào, nhưng ít người bị thương. Chúng tôi tắt điện đài, tản ra, ba khẩu trung liên đặt rải rác làm nghi binh luôn di chuyển để bên địch không đoán được lực lượng của mình. Căn cứ hỏa lực địch thì chắc chúng cũng không quá đông – trước mặt là một đại đội và sau lưng có thể hai. Nói tóm lại, chỉ còn nước chiến đấu chờ đến chiều tối. Bóng đêm sẽ che chở chúng tôi.” (“Nấm Mồ,” trang 457).

Phần Tâm, kể với người thuật lại chuyện “Nấm Mồ” rằng: “Anh Mịch cứ đi băng băng, quên hẳn chúng em thở hồng hộc theo sau. Anh ngoắt nhìn bên phải, rồi bên trái, chăm chú quan sát, chắc hẳn cố tìm lại những dấu vết đã bị thời gian xóa nhà. Tim em đập thình thịch. Nhìn dáng đi của anh Mịch, em tin rằng lần này em sẽ tới được nơi nhà em nằm xuống. Nước mắt em trào ra…” (“Nấm Mồ,” trang 457).

Du Tử Lê

(Còn tiếp kỳ sau)

………………………………………………………………

Fwd: 1 Thư Van Quang
Kim Vu to:….,me

                                                                                                Thư của một độc giả gửi nhà văn Văn Quang.

>>> Tôi nghe tin này tuởng như mất sợi dây liên lạc, sợi dây thân ái giữa tôi  và quê hương. Văn Quang, người tôi chưa bao giờ gặp mà ông đem quê hương và dân tộc xích lại gần tôi trong khi đó bà con ruột thịt bên nhà không ai dám hé môi. Ai cũng nói : “đời sống cũng như xưa, không có gì thay đổi.” Tôi nghe cá chết gọi về hỏi thì  ấy bà con trả lời:” đừng nghe tin đồn rồi lo em, tụi chị ăn cá mỗi ngày có sao đâu?”
>>> Hỏi tin dân oan dưới quê lên Saigon kiện nhà nước, bà dì nói:” Bây đừng lo, nhà ai nấy ở , ai cướp nhà ai đâu? Cướp nhà rồi nhà đâu mà người ta ở?”
>>>
>>> Gặp người mặc áo gấm về làng trở qua tôi mừng quá hỏi: ” những nơi anh đi anh có chụp hình dân xuống đường không? ” ông nói: ” tui đâu dám tới đám đông, về là rút trong nhà với bà già một tháng kêu bà con lại nhậu chớ đi đâu cho mệt.” Đồ khốn kiếp, chứ không phải sợ VC thấy mẹ không dám đi. Nhưng khoe ” VN bây giờ thay đổi nhiều, đường xá tốt, toàn là xe hơi, cycle kể như không còn xe ôm đầy đường, nhà lầu mọc như nấm.”
>>>
>>> Nhưng Văn Quang đã kể dài mấy chục năm nay từ chuyện đi tù , mất nước, mất biển, mất rừng đến cổ thụ  bị bứng khỏi lòng đất mẹ đem bán cho Chệt, đem cung cấp cho đại gia cs.làm nhà .
>>>
>>> Saigon cháy, Saigon chìm trong mưa, Saigon xa hoa, Saigon trong địa ngục, người ngủ trên nhung lụa, người  ngủ dưới hầm cầu, hotel 5 sao, hotel võng ta đã thấy hết qua ngòi viết của Văn Quang.
>>>
>>> CA đánh đàn bà, nguời già đi thăm con trong đồn CA, vợ vô nhà tù nhận xác chồng, nhạc sĩ vô tù vì yêu nước, nhạc sĩ về trú ngụ với mẹ già Văn Quang kể hết cho mình nghe rồi.
>>>
>>> Thôi thì để cho ông huu trí, đến lúc ông bỏ cái túi chứa đầy nước   mắt của quê hương. Ông đã làm tròn sứ mạng tuyệt vời của một nhà báo trong cái nhà tù vĩ đại. Ông không đăm sau lưng chiến sỉ, ông không dùng ngòi viết chửi cộng đồng tỵ nạn, ông không giành ăn cũng không đòi quyền lợi và ông cũng không xin làm tướng tá hay thủ tướng gì ráo trọi. Xin mọi nguổi viết thư cám ơn Văn Quang.
>>>
>>> Tôi xin ngả nón chào ông Văn Quang.
>>>
>>> Chúc ông thân tâm an lạc.
>>>
>>> Mặc sức cho ông thức khuya, dậy trễ. Nghe nhạc vàng thả cửa.
>>>
>>> Đa tạ.
>>>
>>> Đặng Mỹ Dung
>>>
>>> ( nhờ ông Giáo chuyển về cho Ông Văn Quang hộ em)
……………………………………………………………………………….

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics