1."Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh" (Nguyễn Du)2."Cươp lộc"(NĐ/basam)-

LGT- Hôm nay 15 tháng bảy Âm Lịch(17/8/2016), ngày “Xá tội vong nhân”, chúng tôi trích đăng lại bài VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH, một kiệt tác phẩm của Dại Thi Hào Nguyễn Du, đã từng được đăng trên trang web này . Xin chia xẻ cùng quý bạn đọc – – NN
 *******

30/08: 1.Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của Thi hào Nguyễn Du-(1765-1820)-Posted by: Tbl Đọc: 5689 lần

LGT- Lễ Vu Lan ngày Rằm tháng 7 Nhâm Thìn-(31/8/2012)-là dịp để con cháu báo hiếu Phụ Mẫu, đồng thời cũng là ngày nhắc nhở chúng ta nghĩ đến những vong hồn cô đơn, lạc lõng, không được ai thừa nhận . Ông bà tổ tiên chúng ta khi xưa -vào ngày này- cũng có bát cơm hay cháo … cúng “cô hồn” . Đại thi hào Nguyễn Du của chúng ta đã viết cả một bài Văn tế thật xúc động gửi đến “Thập loại chúng sinh” “Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người” …mà chúng tôi trích đăng dưới đây . Mời quí độc giả thưởng lãm .(Hình trêni:Tượng Thi hào Nguyễn Du trong Khu Lưu niệm cụ Nguyễn Du,thuộc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh-skydoor.com)

Trân trọng  –  Nhã Nhạc

***

VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
Nguyễn Du

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng…

Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh…
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người

Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên…
Còn chi ai khá, ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu!
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ độ về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cất gánh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất, vận cùng mà đau!
Bỗng phút đâu mưa sa, ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng, xương khô rụng rời
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới dòng nước chảy
Phận đã đành trâm gãy, bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói
Hồn ngẩn ngơ dòng suối, rừng sim.
Thương thay chân yếu, tay mềm
Càng lăm càng héo một đêm, một dài.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Ngàn vàn khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nhỏ tìm đường hóa sinh?
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Phơi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy
Dẫn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm vắt gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?
Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc là nương thần từ Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre
Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng:”Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có khi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
Phép thiên biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.

Các loại chúng sinh được nhắc đến trong văn tế:
1. Những kẻ “tính đường kiêu hãnh” tham danh vọng mà quên mạng sống.
2. Những kẻ giàu sang sống trong “màn loan trướng huệ” tự kiêu, tự mãn về nhan sắc…
3. Những kẻ làm quan to “mũ cao áo rộng” cầm ngọn bút sinh sát trong taỵ..
4. Những tướng sĩ “bài binh bố trận” “đem mình vào cướp ấn nguyên nhung” phơi thây trăm họ để dành công cho bản thân mình…
5. Những kẻ tính đường trí phú bôn ba lìa bỏ quê nhà để mong được giàu sang…
6. Những kẻ “rắp cầu chữ quý”
7. Những kẻ vào sông ra bể, trong sóng gío hiểm nguỵ..
8. Những kẻ thương buôn đường xa
9. Những kẻ phải đi lính
10. Những kẻ sa cơ thất thế rơi vào “buôn nguyệt bán hoa”
11. Những người hành khất “sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan”
12. Những kẻ mắc vòng tù ngục oan khiên
13. Những kẻ hữu sinh vô dưỡng
14. Những trẻ sơ sinh mất mẹ cha
15. Những kẻ chết vì các loại nạn tai: thủy, hỏa, ác thú…
16. Những kẻ vô tự tức không con cái, thân thuộc
Ấy mới là:
“Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người!
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói kẻ hiền người ngu”
“Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi”
Nguyễn Du

Văn tế thập loại chúng sinh

……………………………………………………

9615. “Cướp lộc”, chỉ dấu của sự xuống dốc thê thảm ở một xã hội đang nhiễm độc

Nguồn: Posted by adminbasam on 17/08/2016

Nguyên Đại

Ngày 11/3/2011, một trận động đất kinh hoàng kéo theo những cơn sóng thần đã tàn phá thành phố Fukushima của Nhật, nhiều người đã mất đi tất cả người thân và tài sản. Nạn nhân của trận thiên tai này nhiều lắm, trong đó có một cậu bé 9 tuổi đang học lớp 3 ở một trường tiểu học trong thành phố.

Em đang đứng tên tầng 3 của trường, giữa giờ thể thao. Ba em làm việc gần đó, và khi em thấy chiếc xe của ba đến đón em về nhà, thì cũng là lúc cơn sóng thần cuốn chiếc xe đi. Nhà em ở gần bờ biển, nơi mẹ và em gái của em đang chờ hai cha con về nhà…Em đã không còn thấy ai trong gia đình em sau những cơn sóng đó, ngoài biển nước mênh mông và những hoang tàn nát đổ của thành phố sau một thiên tai lịch sử.

Trong chiếc áo thun mỏng manh, em sắp hàng để nhận thực phẩm cứu trợ. Người sắp hàng dài lắm, và em đứng xa lạnh run ở cuối hàng. Thấy như vậy, một người cảnh sát đã cởi chiếc áo khoát đang mặc của mình choàng cho em, và hộp đựng khẩu phần thức ăn của anh trong túi áo rơi xuống. Người cảnh sát nhặt lên, đưa cho em và nói: “Khi tới lượt của em, có thể đồ ăn đã phát hết, đây là phần ăn của anh. Anh đã ăn rồi. Em hãy ăn đi”. Đứa bé nhận lấy hộp thức ăn, và cúi thấp đầu chào anh. Người cảnh sát nghĩ rằng, đứa bé sẽ ăn ngay lập tức. Nhưng không, em đem phần thức ăn đến chiếc bàn ở đầu hàng, nơi để vật phẩm cứu trợ, và để ở đó.

Anh cảnh sát ngạc nhiên hỏi, và em đã trả lời: “Bởi vì em thấy nhiều người khác đang đói hơn em rất nhiều; em để ở đó để thức ăn có thể được chia đều”. Anh cảnh sát quay mặt đi, trong nước mắt…Anh cảm nhận được một cách trọn vẹn bài học lớn trong đời về sự hy sinh, và lòng vị tha. Anh cũng nhận ra bài học về tình người mà một người trưởng thành như anh có thể tiếp nhận được từ một đứa bé trong hoàn cảnh thương đau đó. Một xã hội có thể giáo dục một đứa bé 9 tuổi hiểu và thực hiện được những điều như vậy phải đến từ những con người vĩ đại, từ một nền văn hóa vĩ đại; anh viết trong thư gởi cho bạn của anh.

Tôi nhớ và tìm đọc lại câu chuyện trên, khi thấy một băng hình (video clip) về cảnh nhiều người giành giựt thức ăn trong tiếng ê-a kinh kệ của các ông sư với áo quần mũ mão sặc sỡ, trước những mâm cỗ cao ngút trong đêm rằm tháng 7 (15/8) vừa qua ở chùa Quán Sứ, Hà Nội. Cảnh tượng đó cũng tạo một ấn tượng cho tôi, nhưng là một ấn tượng rất khác. Sao lại ra nông nỗi này!…

Khi từ giã những tiện nghi của một Thái Tử, để bước vào đời sống của một tu sĩ, con người mà chúng ta gọi là Phật và thờ phượng trong suốt hơn hai ngàn năm qua, đã không hề đưa bất kỳ một phép mầu nào, vào bất kỳ một món ăn nào, cho bất kỳ một ai. Ngược lại, trên những nẻo đường bùn bụi của đất nước Ấn Độ cổ xưa, người ta chỉ thấy có một người, mỗi ngày đi xin chút thức ăn đủ dùng cho mình trong ngày, trong suốt gần 40 năm rao giảng thông điệp về tình thương. “Phép thuật” mà ngài trao cho các môn đệ chính là lòng Từ Bi. Trí Tuệ mà ngài khai sáng cho các môn đệ chính là sự hiểu biết lý lẽ về vô thường và nhân quả; và dũng khí mà môn đệ của ngài cần phải có chính là sự buông bỏ, hy sinh. Tất cả những gì liên quan đến mê tín đều không thuộc về Đạo Phật.

H1Cảnh người dân “thụ lộc” tại chùa Quán Sứ, tối ngày 15/8. Ảnh cắt từ clip

Hình ảnh những thanh niên hung hăng, đánh và cướp tế vật trong các lễ hội; những người phụ nữ giành giựt bất cứ thứ gì trên bàn thức ăn trong chùa với suy nghĩ rằng đó là “lộc” để cho con cháu họ “ngoan ăn, chóng lớn”, những lò nghi ngút khói với giấy vàng mã được đốt đi cùng với niềm tin sẽ gởi đi đâu đó những tiện nghi như vẽ cho những người đã chết cùng với những hy vọng, những tin tưởng vào cuộc đời này, để chỉ còn lại những bất an, đau khổ là những chỉ dấu cho sự xuống dốc thê thảm của một xã hội đang nhiễm độc.

“Lộc” không phải là những gì giành được từ những lễ hội, chay đàn, cúng tế… Điều đó đi ngược lại với tinh thần Phật giáo. Lộc là hộp thức ăn em bé 9 tuổi đặt trên bàn cứu trợ để chia sẻ với những người cùng khổ. Lộc chính là một phần tài vật thời gian, cho dù nhỏ nhoi đến bao nhiêu, được san sớt cho những sinh linh bất hạnh hơn, đau khổ hơn, trong đời sống này. Đó chính là Lộc từ Phật.

……………………………………………………………

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics