24/03: Bài 33.Tôn Giả La-Hầu-La-Bài 34.Ni Trưởng Kiều-Đàm-Di

24/03: 33.Tôn Giả La-Hầu-La-34.Ni Trưởng Kiều-Đàm-Di
Category: Phật Học – Phật học ôn tập-
Posted by: Tbl Đọc: 6468 lần

BƯỚC VÀO CỬA PHẬT- Quyển 2

Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú

Bài 33.Tôn Gỉả La-Hầu-La

1. Đạo hữu Tuệ Bảo Vũ Văn Thái đã cho tôi một bản Essence of Tipitaka của U Ko Lay. Khi đạo hữu Thiện Nhựt Huỳnh Hữu Hồng dịch cuốn sách ấy, lấy tên là Tìm hiểu sơ lược về Tam Tạng thì có cho tôi một bản. Cuốn sách này ghi lại đầu đề của một số trong Tam Tạng Nam Tông và tóm tắt từng cuốn một, mỗi cuốn trung bình mươi dòng. Tôi hết sức cám ơn hai đạo hữu Tuệ Bảo và Thiện Nhựt đã cho tôi một tấm bản đồ gọn ghẽ và chính xác về Tam Tạng, nhờ đó tôi biết được kinh nào nói về vấn đề gì.
Khi lật từng trang, tới Trung Bộ Kinh, tôi đọc được tên ba kinh là Kinh Giáo Giới La-Hầu-La ở rừng Am-bà-la, Đại Kinh Giáo Giới La-Hầu-La và Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La. Tôi biết ngài La-Hầu-La là con duy nhất của đức Phật và là một trong mười đại đệ tử của đức Phật – bậc mật hạnh đệ nhất – cho nên tôi tò mò muốn biết ngay…

… xem đức Thế Tôn dạy chính con ngài ra sao. Kinh thứ nhất nói về việc “không được nói dối và phải thực tập thanh lọc thân tâm” (khi ấy sa-di La-Hầu-La mới có bảy tuổi). Kinh thứ nhì giảng về “phép quán hơi thở” và giảng thêm về “tứ đại” (khi ấy sa-di đã mười tám tuổi). Và kinh thứ ba nói về 18 giới và tính vô thường của chúng.
Do nhân duyên ấy mà tôi muốn tìm hiểu thêm về tôn giả La-Hầu-La.
2. Chúng ta biết rằng vua Tịnh-Phạn và hoàng hậu Ma-Da là thân phụ và thân mẫu của thái tử Tất-Đạt-Đa. Khi thái tử 16 tuổi thì ngài thành hôn với công chúa Da-Du-Đà-La (một người em con cô con cậu). Cho đến năm hai người cùng ở tuổi 29 thì công chúa hạ sanh một con trai đặt tên là La-Hầu-La.
Theo sách vở, khi thái tử Tất-Đạt-Đa đi ra ngoài hoàng cung, ở bốn cửa thành, ngài lần lượt thấy cảnh người ốm, người già, người chết và một nhà tu dáng dấp ung dung tự tại. Ngài nhận thấy “cuộc đời đầy khổ đau” và từ đó ngài nảy ra ý định đi tu, tìm đường giải thoát cho chúng sinh khỏi mọi khổ đau. Người ta có kể một chi tiết: khi được tin công chúa sinh con trai, ngài đã thốt lên rằng “lại thêm một trói buộc”; chữ trói buộc này tiếng pali là rāhula, cho nên vua Tịnh-Phạn đặt tên cháu nội sơ sinh là Rāhula, phiên âm thành La-Hầu-La (1).
Sau khi có con, thái tử quyết định xuất gia. Đêm khuya, ngài vén màn nhìn vợ con, rồi cương quyết lên ngựa ra khỏi hoàng cung, đi tìm đường cứu chúng sinh. Đối với một người phàm thì có thể nghĩ rằng ngài không thương vợ con, nhưng đối với một vị siêu phàm thì cứu chúng sinh là cứu luôn vợ con, thân quyến (2). Chú bé La-Hầu-La, thiếu cha, nhưng được thân mẫu chăm sóc, che chở, dạy dỗ. Vương phi Da-Du-Đà-La, vắng chồng, tìm nguồn an ủi nơi con trai duy nhất.
3. Sau sáu năm tu hành, do cố gắng của riêng ngài, thái tử Tất-Đạt-Đa thành Phật. Ngài thuyết pháp độ sinh, thành lập tăng đoàn, nhiều người đến quy y. Vua Tịnh-Phạn biết tin ấy, cho người thỉnh ngài từ nước Ma-Kiệt-Đà về thăm cố hương tức thành Ca-Tì-La-Vệ. Nhà vua, quần thần, dòng họ Thích-Ca cùng dân trong thành nô nức đi đón, chỉ có bà Da-Du-Đà-La và La-Hầu-La là ở nhà. Khi thấy đoàn người tới gần, bà chỉ cho con: “Trong số các thày sa-môn kia, người trang nghiêm nhất là thân phụ của con … Con hãy theo mà xin tài sản của con” …
Đức Phật nói với ngài Xá-Lỵ-Phất: “ La-Hầu-La theo ta xin gia tài. Ta không muốn cho y thứ tài sản và hạnh phúc mong manh. Ta muốn cho y của báu vô giá. Ông hãy cho y xuất gia, làm sa-di đầu tiên của tăng đoàn”.
4. Từ đó, chú bé 7 tuổi La-Hầu-La gia nhập tăng đoàn, đệ tử của trưởng lão Xá-Lỵ-Phất. Chúng ta hiểu được những khó khăn về mọi mặt của chàng vương tôn công tử bất ngờ đi vào sống trong kỷ luật của tăng đoàn. Do chưa hết tính nghịch ngợm của con nít nên chú hay lấy trò dối gạt người khác làm vui! Thí dụ ai hỏi chỗ đức Phật ở để đến thăm thì chú ta chỉ ra nơi khác! Biết chuyện này, đức Phật dạy chú, việc này đã được ghi trong kinh mà tôi xin ghi ra đây:
“…Thấy đức Phật từ xa đến, sa-di La-Hầu-La dọn dẹp chỗ ngồi và để sẵn nước cho đức Phật rửa chân. Đức Phật chừa lại một ít nước trong thau và hỏi:
– La-Hầu-La, con có thấy còn lại một chút nước trong thau không?
– Bạch đức Thế Tôn, dạ, con thấy.
– Cùng thế ấy, La-Hầu-La, đời sa-di quả thật không có nghĩa lý gì nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn.
Rồi đức Thế Tôn tạt hết nước trong thau ra và dạy:
– Đời sa-di quả thật như bỏ đi, nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn.
Rồi đức Phật lật úp cái thau xuống và dạy:
– Đời sa-di quả thật bị đảo lộn nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn.
Cuối cùng đức Phật lật cái thau trở lên, để ngay ngắn và dạy:
– Đời sa-di quả thật trống không và vô vị nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn. Với người nói dối mà không biết hổ thẹn, Như Lai tuyên bố, không có điều tội lỗi xấu xa nào mà người ấy có thể không làm. Do đó, La-Hầu-La, con phải cố gắng lập tâm quyết định: Dầu trong lúc chơi đùa, tôi cũng không nói dối …”
Từ đó sa-di trở thành một con người mới.
5. Tội nghiệp chú sa-di nhỏ tuổi, từ bỏ đời sống nhung lụa trong hoàng cung, ngày ngày theo trưởng lão Xá-Lỵ-Phất cầm bình bát đi khất thực, nhưng vì còn ít tuổi, đi sau đoàn, nên chỉ nhận đồ cúng dàng cơm rau ít ỏi. Đức Phật hỏi tại sao nét mặt sa-di không được vui, sa-di tình thực thưa rằng ăn không đủ, đói bụng không an tâm tu hành được! Ngài an ủi và hiểu tình cảnh của sa- di. Ngài nói với trưởng lão Xá-Lỵ-Phất nên chú ý đến các sa-di khi họ theo đi khất thực. Ngài Xá-Lỵ-Phất hiểu ý của Thế tôn. Từ đó ngài thường san sẻ cơm cho chú sa-di.
Sống trong tăng đoàn, tuy được mọi người quý vì là con Phật, nhưng La-Hầu-La vẫn phải giữ đúng kỷ luật như mọi người. Ông được tỳ-kheo quản lý chia cho một phòng, sáng dạy phải xếp đồ dùng gọn ghẽ, quét phòng và quét vườn cho sạch sẽ. Sau đó tu tập và đi nghe Phật thuyết pháp. Có một hôm, chiều về thì thấy có một vị khách tăng ở trong phòng của mình, đồ đạc riêng thì bị bỏ ra ngoài. Vì phải kính trọng tỳ-kheo nên sa-di La-Hầu-La không dám nói gì. Trời sắp tối lại đổ mưa nên sa-di chỉ còn có cách vào trú trong nhà vệ sinh, tuy hôi hám nhưng còn tránh được mưa. Do tu tập đã tiến bộ, sa-di không oán trách ai cả, giữ được nhẫn nhục trong hoàn cảnh này. Bỗng một con rắn độc vì bị ngập nước nên bò vào nhà vệ sinh. Đức Phật do thiên nhãn, biết sự nguy hiểm, bèn tới nhà vệ sinh ra lệnh cho sa-di ra ngay. La-Hầu-La quỳ bên chân Phật, nước mắt pha lẫn nước mưa. Sau khi biết lý do tại sao La-Hầu-La lại ở trong nhà vệ sinh, ngài dạy sa-di về phòng ngài. Từ đấy, do lòng thương của ngài, ngài quy định cho phép các sa-di có thể được ngủ nhờ trong phòng tỳ- kheo hai đêm. Vì thế mà thỉnh thoảng ngài Xá-Lỵ-Phất gọi sa-di La-Hầu-La qua phòng ngài, nhờ đó sa-di được học hỏi nhiều từ ông thầy đỡ đầu của mình. (3)
6. Khi lớn lên, La-Hầu-La tu hành rất nghiêm chỉnh. Đại kinh Giáo Giới La-Hầu-La (Trung bộ kinh) cho biết rằng đức Phật thuyết giảng kinh tại thành Xá-Vệ, cho La-Hầu -La (lúc đó đã 18 tuổi) về năm uẩn. Tôn giả Xá-Lỵ-Phất chỉ dạy thêm về phép quán hơi thở. Đức Phật nêu các ích lợi của phép tùy tức (quán hơi thở ra, thở vào).
Làm đúng theo lời dạy của đức Phật, La-Hầu-La chuyên chú hành thiền và không bao lâu, khi nghe Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La thì đắc quả a-la-hán. Bản kinh này đuợc Phật thuyết giảng trong khu rừng Andhavana, gần tịnh xá Kỳ Viên, xứ Xá-Vệ cho tỳ-kheo La-Hầu-La, nay đã sẵn sàng hấp thụ đại pháp. Bằng lối vấn đáp, đức Phật đã hướng dẫn tỳ-kheo La-Hầu-La phân tích sáu căn, sáu trần và sáu thức, nhận rõ tính cách vô thường của chúng, khiến cho tỳ-kheo diệt trừ được các lậu hoặc và chứng ngay quả vị a-la-hán. (4)
Coi mấy dòng ngắn trên đây, chúng ta không nên hiểu rằng tôn giả La-Hầu-La đắc quả một cách đơn giản như vậy. Thật ra, đây là một quá trình tu tập lâu dài và kiên quyết. Có một tỳ-kheo đã hỏi đức Phật rằng:
– Bạch Thế tôn, tỳ- kheo La-Hầu-La nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu hành, không phạm một lỗi nhỏ; vì muốn cầu khai ngộ, thày đã tận tình buông bỏ vậy mà tại sao thày vẫn chưa đoạn trừ hết phiền não, giải thoát hoàn toàn ?
Đức Phật đáp: – Giữ giới tịnh tâm, giữ thân đoan chánh, nhất định có thể dứt sạch ô nhiễm, nhất định dần dần chứng quả.
7. Một ngày kia, sau khi đi khất thực về, đức Phật đến chỗ La-Hầu-La đang tọa thiền, dạy rằng: – Nên dùng sức đồng thể đại bi, lòng từ vô duyên để đối xử với người và việc, tâm lượng rỗng rang có thể dung nạp tất cả chúng sanh, mới có thể diệt ác; đếm hơi thở quán tâm, có thể đạt được giải thoát.
La-Hầu-La từ tòa ngồi đứng dậy, đảnh lễ Phật và thưa: – Bạch thế tôn, phiền não con đã hết, con đã chứng ngộ xong.
Đức Phật vô cùng hoan hỉ, ngài nói: – Trong các đệ tử của ta, tỳ-kheo La-Hầu-La là bậc mật hạnh đệ nhất.
(Gọi là mật hạnh, nghĩa là trong ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, La Hầu La đều biết hết, làm được hết. La-Hầu-La chỉ im lặng tu tập, không màng tranh đua với thế gian, tính tình nhu thuận, không sốc nổi) (5).
Trong sách Đức Phật và Phật Pháp, HT Narada đã viết: “ Mười bốn năm sau khi đức Phật thành đạo, sa-di La-Hầu-La thọ cụ túc giới, xuất gia tỳ-kheo. Ngài viên tịch trước đức Phật và đức Xá-Lỵ-Phất. (Có thuyết khác nói rằng khi đức Phật nhập diệt thì ngài La-Hầu-La quỳ bên giường). Ngài nổi tiếng là người rất tôn trọng kỷ luật”.
Mấy câu sau đây (được xem là của ngài La-Hầu-La) trích trong Theragāthā và Therigāthā là hai cuốn kinh tập trung các bài thơ kệ chứng đạo ca của các bậc tỳ-kheo cao cấp và tỳ-kheo-ni cao cấp:
“Ta không còn trở lại trên thế gian nữa,
A-la-hán, ta xứng đáng nhận lãnh lòng tôn kính cúng dường của nhân loại,
Chúng sanh bị lục dục ngũ trần làm mù quáng,
Những khát vọng của cơ thể vật chất bao trùm lên chúng sanh như một màng lưới kín,
Chúng sanh bị bao phủ trong tham ái, không khác nào cá nằm trong rọ,
Nhưng ta nay đã xây lưng, không còn nghe tiếng gọi của ngũ trần,
Đã cắt đứt và phá vỡ mọi thằng thúc,
Đã tận diệt tham ái, bứng tận gốc rễ,
Giờ đây ta mát mẻ, thanh bình, an lạc,
Bao nhiêu lửa đã bị dập tắt.” □
CHÚ THÍCH.
(1) Trong sách Đức Phật và Phật Pháp của HT Narada, do Phạm Kim Khánh dịch, chúng tôi thấy chú thích : “Rāhula có nghĩa là bị buộc hay bị cột (la) bởi một sợi dây (rāhu)”. Chúng tôi nghĩ rằng mấy chi tiết ấy về tên Rāhula không hợp lý lắm nên tìm thêm. Tự Điển Phật Học Hán Việt cho biết: “Ngài sinh ra vào lúc sao La-Hầu-La A-Tu-La-Vương che lấp gây thành nguyệt thực nên gọi ngài là La-Hầu-La”.
Cuốn Dictionnaire Encyclopédique du Bouddhisme của Philippe Cornu thì cho biết rằng thái tử sinh nhằm ngày nguyệt thực hay nhật thực (tên của vị thần tạo ra nhật nguyệt thực là Rāhula). Khi vua Tịnh-Phạn cho người đi báo tin mừng cho thái tử Tất-Đạt-Đa, thái tử than: “Một trói buộc, một trở ngại đã đến với ta (rāhula là trói buộc)”. Người đưa tin về tâu vua, vua đặt tên cháu đích tôn là La-Hầu-La.
(2) Có nơi nói thái tử xuất gia ngay sau khi có con, tài liệu khác thì cho rằng khi La-Hầu-La được 7 ngày thì thái tử mới xuất gia. Sách Đường Xưa Mây Trắng của Nhất Hạnh (Lá Bối xb, San Jose, CA, USA), chương 11 và 12, kể nhiều chi tiết khác, thí dụ như: chính công chúa Da-Du-Đà-La ra lệnh cho người giữ ngựa Xa-Nặc lo ngựa cho chồng rời bỏ hoàng cung. Cuối sách, sau “Lời tác giả”, có thấy ghi rõ chương nào dựa vào những kinh nào. Tác giả dùng tên người và tên xứ bằng tiếng pali và không để dấu trên các chữ pali đó.
(3) Hai truyện Khất thực và Rắn vừa kể được rút từ sách Thập Đại Đệ Tử của HT Thích Tinh Vân, Như Đức dịch, ấn tống 1997.
(4) Những điều tóm tắt này được rút trong bản dịch của đạo hữu Thiện Nhựt như đã ghi ở đầu bài nói này.
(5) Theo HT Tinh Vân, sách đã dẫn. □

Bài 34. Niên Trưởng Kiều-Đàm-Di

1. Khi học lược sử đức Phật, chúng ta được biết rằng Ngài là con vua Tịnh- Phạn và hoàng hậu Ma-Da, thuộc họ Cồ-Đàm, bộ tộc Thích-Ca, thành Ca-Tì-La-Vệ. Bên cạnh vương quốc của bộ tộc Thích-Ca là vương quốc của bộ tộc Câu-Lị, do vua Thiện Giác trị vì. Hai vương quốc này vẫn giữ mối giao hảo với nhau từ lâu năm.
Em gái vua Tịnh-Phạn, tên là Cam-Lộ, là hoàng hậu của vua Thiện Giác, bà sinh ra công chúa Da-Du-Đà-La (công chúa có một người anh tên là Đề-Bà-Đạt-Đa).
Hai em gái vua Thiện Giác là Ma-Da và Kiều-Đàm-Di đều kết hôn với vua Tịnh-Phạn. Hoàng hậu Ma-Da sinh ra thái tử Tất-Đạt-Đa được bảy ngày thì mất. Thứ hậu Kiều-Đàm-Di trở thành hoàng hậu, lãnh trọng trách nuôi thái tử Tất-Đạt-Đa mà bà thương yêu như con của mình; như vậy là dì nuôi cháu. Sách kể lại rằng hai con của bà là hoàng tử Nan-Đà (sinh cùng năm với thái tử Tất-Đạt-Đa) và công chúa Tôn-Đa-Lị Nan-Đà được trao cho các bà vú chăm nom. Một tài liệu khác thì nói rằng bà nuôi cả cháu là Tất-Đạt-Đa và con là Nan-Đà.
Thái tử Tất-Đạt-Đa thành hôn với công chúa Da-Du-Đà-La khi hai người cùng tuổi 16, đến năm 29 tuổi thì được một con trai, đặt tên là La-Hầu-La. Thái tử đi tu, 6 năm sau thì thành Phật.
2. Mục đích của bài này là nói về bà Kiều-Đàm-Di. Khi bà mới sinh ra thì theo như tục lệ Ấn-Độ thời bấy giờ, các thày tướng số được mời đến coi cho bà. Họ tiên đoán rằng về sau bà sẽ cầm đầu một tổ chức lớn, vì thế tên bà mới có thêm chữ Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Đề; Ma-Ha nghĩa là lớn, Ba-Xà là một nhóm đông người và Ba-Đề là người cầm đầu. Vì vậy, tên đầy đủ của bà là: Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Đề Kiều-Đàm-Di.
Khi vua Tịnh-Phạn biết rằng đức Phật đã thành đạo thì ngài phái nhiều vị sứ thần đến thỉnh đức Phật về kinh đô Ca-Tì-La-Vệ, nhưng vị nào được nghe đức Phật thuyết pháp xong cũng xin xuất gia, không trở về cung! Vị cuối cùng tuy cũng làm như vậy nhưng còn nhớ lời dặn của nhà vua, nên thành khẩn xin Phật về thăm cha nay đã già yếu. Đức Phật nhận lời. Khi về đến kinh đô, Ngài cùng các đệ tử đi trì bình trên đường phố. Nhà vua nghĩ rằng làm như vậy là hạ uy tín của hoàng gia và tỏ ý không vui về việc này. Đức Phật khuyên giải vua cha và nhờ đó nhà vua đắc quả tu-đà-hoàn (nhập lưu). Nhà vua bèn thỉnh Phật và đoàn tùy tùng về cung trai tăng. Xong, đức Phật lại giảng pháp, nhà vua nghe xong thì đắc quả tư-đà-hàm (nhất lai). Vào lúc ấy, hoàng hậu Ba-Xà-Ba-Đề cũng có mặt, được nghe pháp và bà đắc quả tu-đà-hoàn (nhập lưu). Và sau khi được nghe một phần của kinh Trì pháp Túc sanh truyện, nhà vua đắc quả a-na-hàm (bất lai).
Về sau, khi hay tin nhà vua sắp băng hà, đức Phật về thuyết pháp cho nhà vua nghe lần chót và nhà vua đắc quả a-la-hán (bất sinh). Đức Phật chủ lễ trà tỳ của vua cha và lưu lại công viên Ni-Câu-Đà ở gần kinh đô Ca-Tì-La-Vệ ba tháng để hóa độ chúng sinh.
3. Hoàng hậu Ba-Xà-Ba-Đề đến công viên Ni-Câu-Đà khẩn cầu đức Phật cho phép bà và phái nữ được xuất gia. Khi nói đến phái nữ thì người ta thường nhắc đến năm trăm phụ nữ, phu nhân của năm trăm vị vương tôn công tử dòng họ Thích-Ca đã xin xuất gia khi đức Phật trở về kinh đô, thi triển thần thông và thuyết pháp độ sanh. Khi nói năm trăm thì ta nên hiểu là số nhiều, không nên chấp là đếm đủ số năm trăm. Ngoài ra, có tài liệu nói rằng trong số năm trăm này có cả các góa phụ của các chiến sĩ tử trận trong cuộc chiến giữa hai bộ tộc Thích-Ca và Câu-Lị khi tranh chấp về việc sử dụng nước sông Rohinī ngăn cách hai nước. Đức Phật từ chối dù rằng dì mình, mà cũng là mẹ nuôi của mình, khẩn cầu đến ba lần. Những người không biết hết các chi tiết về quan niệm và thái độ của đức Phật đối với phụ nữ có thể nghĩ rằng Ngài từ chối vì còn nhiều e dè, chưa coi trọng vai trò của phụ nữ, nhưng thật ra không phải như vậy!
Sau đó đức Phật trở lại thành Tì-Xá-Li (còn gọi là thành Quảng Nghiêm, kinh đô vương quốc Bạt-Kỳ của bộ tộc hùng mạnh Lê-Xa), ngài ngụ trong tu viện Trùng Các thuộc rừng Đại Lâm.
4. Dù đức Phật từ chối lời khẩn cầu của mình ba lần, bà Ba-Xà-Ba-Đề cũng không nản chí, bà cùng các phu nhân còn giữ ý định xuất gia, quyết định bỏ mọi thứ xa hoa, đồ trang sức và y phục lịch sự, rồi xuống tóc, khoác y vàng, đi chân không. Tất cả coi thái hậu Ba-Xà-Ba-Đề là thủ lãnh của họ. Rồi mọi người cương quyết cùng đi bộ từ thành Ca-Tì-La-Vệ đến thành Tì-Xá-Li (hành trình khoảng hai trăm cây số, kéo dài rất nhiều ngày). Trong số các mệnh phụ phu nhân muốn xuất gia, có cả công chúa Da-Du-Đà-La; nhưng thái hậu khuyên nên ở trong cung chờ coi tin tức ra sao đã. Cuối cùng, sau bao nhiêu ngày vất vả, xin ăn dọc đường, nghỉ dưới gốc cây, đoàn người tới được Đại Lâm, mệt mỏi suy yếu, áo quần lấm bụi, bàn chân rướm máu, đứng đợi ngoài tu viện của đức Phật.
Sáng sớm hôm ấy, ngài A-Nan vừa ở trong tu viện ra ngoài thì trông thấy thái hậu và đoàn người đứng ở ngoài cổng. Trước sự ngạc nhiên của ngài, thái hậu giải thích cho ngài biết mục đích và quyết tâm của đoàn phụ nữ và cầu xin ngài bạch với đức Thế tôn chấp thuận cho đoàn phụ nữ được xuất gia.
Tôn giả A-Nan nhận lời và vào tu viện trình với đức Phật, xin đức Phật chấp thuận cho thái hậu và đoàn phụ nữ được xuất gia. Đức Phật không chấp thuận. Tôn giả A-Nan bạch:
– Bạch Thế Tôn, nếu người phụ nữ từ bỏ đời sống gia đình, sống không nhà cửa, tu theo giáo pháp và giới luật thì có thể chứng được bốn thánh quả tu-đà-hoàn, tư-đà-hàm, a-na- hàm và a-la-hán hay không?
– Này A-Nan! Người nữ xuất gia cũng có thể chứng ngộ bốn thánh quả.
Nghe như vậy, tôn giả A-Nan cố gắng trình bày mọi lý lẽ để xin cho thái hậu và đoàn phụ nữ được xuất gia. Đức Phật trả lời rằng Ngài sẽ chấp thuận cho quý bà xuất gia làm tì- kheo-ni nếu như chịu chấp thuận tám điều mà sau này kinh sách gọi là bát kính pháp hay bát kính giới, tóm tắt như sau:
1/ Một vị tì-kheo-ni phải cung kính đứng dậy và chào hỏi một vị tì-kheo, dù rằng có lớn hơn cả về tuổi đời lẫn tuổi đạo.
2/ Hàng năm, đến mùa an cư, ni chúng phải tìm đến nơi an cư của chúng tì-kheo để nương tựa và học hỏi.
3/ Đến kỳ bố tát, ni chúng phải cử người đến xin chúng tì-kheo định ngày giờ và cử người sang giáo huấn và khuyến khích việc tu học của ni chúng.
4/ Kết thúc kỳ an cư, mỗi tì-kheo-ni phải thọ lễ tự tứ trước tăng chúng tì-kheo và ni chúng.
5/ Khi phạm giới luật, vị tì-kheo-ni phải sám hối trước tăng chúng và ni chúng.
6/ Những sa-di-ni đã thọ giới thức xoa- ma-na hai năm phải cầu xin thọ đại giới trước cả hai chúng tăng và ni.
7/ Tì- kheo- ni không bao giờ được khiển trách hay nặng lời với một tì-kheo.
8/ Tì-kheo-ni không được vạch lỗi của tì-kheo nhưng tì-kheo được vạch lỗi của tì-kheo-ni.
[Có người nghĩ rằng tám điều này có vẻ kỳ thị nữ giới. Nhưng chúng ta phải đặt mình vào xã hội Ấn-Độ 25 thế kỷ trước đây: vào lúc mà địa vị của người phụ nữ hết sức thấp kém, vào lúc mà phân chia giai cấp hết sức nặng nề thì chấp thuận cho phụ nữ xuất gia là một việc cách mạng xã hội, không thể khinh xuất được, phải chuẩn bị điều kiện xã hội và tâm lý quần chúng. Bát kính pháp chính là cách mở cửa cho phụ nữ gia nhập giáo đoàn. Chính thái hậu Ba-Xà-Ba-Đề cũng công nhận như vậy].
5. Khi thái hậu được tôn giả A-Nan báo tin thì bà hoan hỉ chấp thuận tuân hành “nghiêm trì bát kính pháp và nguyện trọn đời không vi phạm. Sau đó bà xuất gia. Bà đến trước đức Phật và đảnh lễ. Đức Bổn sư thuyết giảng cho bà một thời pháp và ban truyền cho bà một đề mục hành thiền. Bà chứng đắc đạo quả a-la-hán. Sau, năm trăm vị phu nhân khác cũng được gia nhập ni đoàn. Đó là các tì-kheo-ni đầu tiên của giáo đoàn. Các bà cũng đắc quả a-la-hán khi ngài trưởng lão Nandaka chấm dứt một thời pháp cho các bà”.
Đức Phật Thích-Ca là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã cho thành lập một nữ đoàn thể bao gồm các vị xuất gia với đầy đủ giới luật và tổ chức nghiêm minh. Cánh cửa đã rộng mở để cho hàng phụ nữ được xuất gia, đặc ân cho phái nữ gia nhập một Giáo Hội Nữ Tu Sĩ đã được ban hành. Nhiều bà, cỡ tuổi khác nhau, điều kiện xã hội khác nhau, từ các địa phương khác nhau, đã gia nhập Giáo Hội và ngay từ thời đức Phật còn tại thế, có cả ngàn vị tì-kheo-ni đắc quả a-la-hán. Trong kinh Trưởng Lão Ni Kệ, các vị tì- kheo-ni này đã viết ra “những lời tán dương, những bài thánh thi để nói lên mức độ phỉ lạc mà các bà đã kinh nghiệm trong khi xuất gia và sau đó khi thành đạt kết quả”.
6. Thái hậu Ba-Xà-Ba-Đề trở thành Ni sư Ma-Ha Ba-Xa-Ba-Đề Kiều-Đàm-Di, được đức Phật giao phó trách nhiệm ni trưởng để lãnh đạo ni đoàn. Như vậy là có hai hội chúng tồn tại song song. Bên Tăng Bộ có hai vị Đại trưởng lão là hai tôn giả Xá-Lợi-Phất và Mục-Kiền-Liên. Bên Ni Bộ cũng có hai ni sư trưởng là Khemā và Uppalavannā.
Ni sư trưởng Kiều-Đàm-Di lo mọi chi tiết không những trong việc tu học mà còn cả về nhiều phương diện khác như cách ăn mặc của ni chúng chẳng hạn. Bà vận động các thí chủ xây dựng các ni viện; nhờ uy tín của bà mà ni viện dần dần được thành lập tại nhiều nơi. Có một chi tiết mà chúng ta nhận thấy là các ni viện không bao giờ được tạo dựng nơi rừng vắng; đó là nhằm bảo vệ cho các phụ nữ yếu đuối.
Như trên đã ghi, ni sư đã được đức Phật trực tiếp giảng dạy giáo pháp và giáo hạnh, và đã đắc quả a-la-hán. Tất cả chư ni cùng xuất gia với bà cũng chứng quả a-la-hán cả, trong số đó có bà Da-Du-Đà-La là người gia nhập ni đoàn sáu tháng sau khi ni đoàn được thành lập. Có một chi tiết nói rằng: một số ni đã nêu ra vấn đề thọ giới của ni sư Kiều-Đàm-Di không được tiến hành theo đúng quy tắc nên từ chối dự lễ bố tát với ni sư. Đức Phật phải đích thân can thiệp, tuyên bố rằng Ngài là người đã truyền giới cho ni sư. Mọi chuyện nhờ đó được êm đẹp.
Theo kinh Trưởng Lão Ni Kệ thì: Khi ni sư trưởng Kiều-Đàm-Di được 120 tuổi thì bà biết mình sắp tịch diệt. Bà nghĩ: “Nay đã đến thời ta nhập Bát-niết-bàn, không chứng kiến được việc Đại-bát-niết-bàn của đức Thế Tôn, việc Bát-niết-bàn của hai vị đại đệ tử, của La-Hầu-La, A-Nan và Nan-Đà, ta cần phải xin phép đức Phật”. Năm trăm vị tỳ-kheo- ni cũng có suy nghĩ tương tự.
Các tín nữ biết tin ni sư sắp nhập Bát-niết-bàn thì tỏ ra sầu muộn, bà và chư ni khuyên giải họ rồi cùng đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ Ngài và xin Ngài cho phép nhập Bát-niết-bàn. Bà nói: “Kính bạch bậc Cao Quý của thế gian, thông thường các phụ nữ gây nên những lỗi lầm rồi mệnh chung, nếu con có lỗi lầm gì, xin Ngài từ bi tha thứ”.
Kế đó, bà trình bạch việc nhập Bát-niết-bàn trước chư tăng, rồi đảnh lễ tôn giả La-Hầu- La, tôn giả A-Nan, tôn giả Nan-Đà. Tôn giả Nan-Đà và La-Hầu-La là bậc đã ly sầu, hiểu rõ các pháp hữu vi là vô thường. Riêng tôn giả A-Nan còn là bậc hữu học nên ràn rụa nước mắt, bà phải ngỏ lời an ủi.
7. Đức Phật dạy: “Một số người còn nghi ngờ khả năng của phụ nữ tu thành quả vị a -la-hán. Nay đã đến lúc bà nên thi triển thần thông cho họ thấy để mà từ bỏ tà kiến”. Ni sư vâng lời, bay lên không, thi triển nhiều phép thần thông, hiện một thân thành nhiều thân, nhiều thân thành một thân, xuất hiện, biến mất, đi qua tường, đứng trên không vv … cho đại chúng thấy rồi hạ xuống đất, đảnh lễ bậc Đạo Sư. Các ni đồ chúng của trưởng lão ni cùng nhau bay lên hư không, trổ uy lực thần thông rồi từ hư không hạ xuống đất, đảnh lễ đức Đạo Sư, xin Ngài cho phép nhập Bát-niết-bàn. Đức Phật nói: “Này các tì-kheo-ni, khi các vị ngỏ lời xin Bát-niết-bàn, Như Lai còn gì để nói, nay các vị hãy làm những gì nghĩ là hợp thời”.
Sau đó, Ni trưởng và chư ni phủ phục dưới chân bậc Đạo Sư, diện kiến lần cuối rồi lui về tịnh xá. Các ngài cùng nhập Bát-niết-bàn, yên lặng như ngọn đèn hết dầu.
Đám tang rất trọng thể, tôn nghiêm. Đức Phật xưa nay không bao giờ đi sau ai cả, thế mà trong đám tang này, Ngài đi sau cỗ xe chở quan tài của ni trưởng Kiều-Đàm-Di. Rõ ràng là Ngài, vị Thiên Nhân Sư, đấng Thế Tôn, đã làm tròn chữ hiếu đối với người mà Ngài coi là mẹ ruột của mình.
Nhục thể được thiêu trên hỏa đài đầy bột thơm, chỉ còn lại xá-lợi. Đức Phật dạy tôn giả A- Nan nhặt xá-lợi của ni sư đặt vào bát của bà, ngài A-Nan tuân lời rồi dâng bát lên đức Phật. Ngài cầm bát đựng xá lợi và phán rằng: “ … Trưởng lão ni Kiều-Đàm-Di đã vượt qua biển luân hồi, đã đoạn trừ nhân phiền não, trở thành bậc an tịnh. Kiều-Đàm-Di là bậc hiền trí, bậc đa tuệ, bậc quảng tuệ và là bậc kỳ cựu trong hàng ni chúng …”
Cái quyền lớn và đặc ân mà bà Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Đề đã tranh đấu và thành công, tức quyền của nữ giới được gia nhập Giáo Hội Thánh Thiện, quả là quan trọng trong lịch sử tôn giáo. Chí đến ngày nay còn nhiều hệ thống tôn giáo hưng thạnh trên thế giới chưa chịu nhượng quyền cho hàng phụ nữ thọ giới tu sĩ … Đức Phật nổi bật là một trong số ít các vị giáo chủ của nhân loại đã nâng cao hàng phụ nữ lên một vị trí xứng đáng trong đời sống, bằng cách cho phép nữ giới gia nhập vào Giáo Hội Tỳ-Kheo-Ni và như vậy, mở ra một chương sách hoàn toàn mới trong lịch sử giải phóng của người phụ nữ. (theo HT Nārada)
8. Ngày nay, trong các nước theo Phật giáo Nam tông, không thấy có ni đoàn tuy rằng người ta thấy sự hiện diện của một số nữ tu. Lý do có lẽ như thế này: khi người Hồi giáo xâm lăng Ấn-Độ thì tăng ni bị sát hại nhiều, một số chạy được ra nước ngoài. Số ni sư chạy thoát không có bao nhiêu, tản mác nhiều nơi; rồi theo thời gian, mất đi mà không có kế thừa! Trong những năm gần đây, tại Tích Lan, đang có sự vận động tái lập ni đoàn.
Trong các nước theo Phật giáo Bắc tông, thì hiện thời vẫn có các vị ni sư trưởng, các ngài có thể truyền giới cho đệ tử theo đúng quy luật của nhà Phật vì thế mà vẫn có ni đoàn. □
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đức Phật và Phật pháp, tác giả Nārada Mahā Thera, dịch giả Phạm Kim Khánh; liên lạc Chùa Kỳ Viên, Washington DC 20011, USA.
Ở trang 161 sách này, có một đoạn đại khái như sau đây: “Một lần nọ, đại đức Ānanda đến hầu đức Phật và bạch:
– Bạch hóa đức Thế Tôn, chúng con phải đối xử với nữ giới như thế nào?
– Này Ānanda, coi như không trông thấy.
– Nhưng đã thấy rồi thì chúng con phải làm thế nào?
– Này Ānanda, không nên nói chuyện.
– Nhưng nếu được hỏi thì chúng con phải làm như thế nào?
– Này Ānanda, phải cẩn thận đề phòng, giữ vững chánh niệm.
Đức Phật muốn nhắc nhở các tỳ-khưu luôn luôn phải thận trọng mỗi khi có việc liên quan đến nữ giới”.
2. Lời Vàng Bậc Thánh, Sớ giải Trưởng Lão Ni Kệ, Tỳ-Khưu Thiện Phúc. Coi bài: Kệ ngôn của Trưởng lão ni Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Đề Kiều-Đàm-Di. Tìm trong internet: BuddhaSasana, Bình Anson, phần tiếng Việt.
3. Le Bouddha, Sa Doctrine, Sa Communauté, tác giả là người Đức H. Oldenberg, bản dịch tiếng Pháp của A. Foucher, Librairie Félix Alcan xb, Paris, 1921. Ở trang 163 sách này, tác giả chép một đoạn lấy trong Cullavagga, X,1 liên quan đến việc đức Phật nghĩ về phụ nữ gia nhập giáo đoàn như sau: “ – Si, ô Ānanda, dans la doctrine et dans l’ordre que le Parfait a fondés, il n’avait pas été accordé aux femmes de quitter leurs foyers pour mener une vie errante, la vie sainte, ô Ānanda, serait demeurée longtemps observée: la pure doctrine serait maintenue pendant mille ans. Mais parce que, ô Ananda, dans la doctrine et dans l’ordre que le Parfait a fondés, les femmes renoncent au monde et embrassent la vie errante, désormais, ô Ānanda, la vie sainte ne demeurera plus longtemps observée: la doctrine de la vérité ne se maintiendra plus à présent que cinq cents ans”.
Trang 164: “Quand le Maĩtre meurt, aucune femme d’entre ses disciples ne l’assiste; on fait même reproche à Ānanda d’avoir laissé approcher du corps du Bouddha des femmes dont les larmes souillèrent le cadavre”.
Nếu chỉ coi hai đoạn trích trên đây, độc giả có thể hiểu lầm về quan điểm của đức Phật đối với phụ nữ. Sự thật, không phải là Ngài có ý “kỳ thị” nữ giới. Mời độc giả coi cuốn Phật Giáo Nhìn Toàn Diện của Piyadassi Mahā Thera, nguyên tác Anh ngữ là The Spectrum of Buddhism, do Phạm Kim Khánh dịch ra tiếng Việt, Nārada Center, P.O. Box 1673, Lynnwood, WA 98046, USA, 1995; sách ấn tống, không bán.
4. Mười Vị Đệ Tử Lớn của Đức Phật, tác giả: Tinh Vân Pháp sư, cư sĩ Hạnh Cơ dịch và soạn thêm phần Phụ lục, Chùa Liên Hoa, Hội Cư sĩ Phật Giáo Orange County xb, 2005.
5. From the Sutras: Life Stories of the Historical Bikshunis. Tìm trong internet: geocities.com/zennun12_8.
6. Women of The Way, tác giả là Sallie Tisdale, HarperSanFrancisco, USA, 2006. Tác giả nguyên là một nữ tu sĩ Phật giáo. □

Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú

Bước Vào Cửa Phật-Quyển 2-Montreal 2010

Hình: một ngôi chùa Nhật Bản – NN sưu tầm .

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics