Hoằng Hữu NVP:1/Thư đi tin lại-Kỳ 19-2/Câu chuyện canh khuya–Huyền Không TMG:NHỚ CHÙA-

Header
12/10: Hoằng Hữu NVP:1/Thư đi tin lại-Kỳ 19-2/Câu chuyện canh khuya–Huyền Không TMG:NHỚ CHÙA-
Category: Phật Học – Phật học ôn tập-
Posted by: Tbl Đọc: 5504 lần

THƯ ĐI TIN LẠI – KỲ 19
Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú – Montreal 2010 (Hình:Chùa Từ Quang-Montreal)

160 – Câu hỏi của đao hữu về các thừa có lời giải đáp thật hay ở trong kinh Pháp bảo đàn . Mời đạo hữu coi : “Trí Thường một ngày kia hỏi Đại sư (Lục tổ Huệ Năng) rằng : Phật nói pháp thì có ba thừa, sao lại còn nói tối thượng thừa ?…

Đại sư đáp:…

… người tự xem bổn tâm, chớ chấp pháp tướng bên ngoài . Pháp không có bốn thừa, tại lòng người chia ra có ngôi thứ sai khác .

Bậc thấy, nghe, chuyên tụng, ấy là tiểu thừa .
Bậc tỏ pháp, rõ nghĩa, ấy là trung thừa .
Bậc y theo pháp tu hành, ấy là đại thừa .
Bậc muôn pháp đều thông, muôn pháp gồm đủ, hết thảy chẳng nhiễm, lìa các pháp tướng, không chấp một pháp nào cả, ấy gọi là tối thượng thừa .
Chữ thừa thực nghĩa là làm, chẳng phải là lấy miệng tranh nhau . Người cần tự tu lấy, chớ hỏi nữa . Bất cứ lúc nào cũng phải tự tánh, tự như .

Trí Thường làm lễ tạ ơn, trọn đời theo hầu Tổ sư”.

161 – “Gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma”. Có câu đó thật . Mới nghe dễ phát sợ ! Nhưng phải đặt vào trong bài văn thì mới hiểu . Ý câu đó là : Khi ngồi thiền, nếu thấy cảnh giới nào đó thì đừng có dính vào, mắc vào, mà phải lướt qua đi, nhằm đúng mục đích của việc tọa thiền là kiến tánh, giác ngộ . Chỉ có thế thôi . Sở dĩ phải nói mạnh như trên đây là cốt để cho hành gả nghe rồi nhập tâm dễ dàng . Dĩ nhiên, người phàm như chúng ta thì chớ bao giờ “phát ngôn” như vậy .

162 – Shangha hay Samgha là chữ Phạn, phiên âm thành tăng-già . Đó là đoàn thể các vị tỳ-kheo, chữ này có nghĩa chung chứ không chỉ riêng một vị tăng nào . Còn chữ Singha thì khác hẳn, nghĩa đen là con sư tử . Sư tử quốc là nước Tích Lan (Ceylan, nay là Sri Lanka – trong chữ Lanka này ta lại thấy chữ Lăng già). Trong tên nước Tân Gia Ba (Singapore, Singapour) cũng có chữ singha là sư tử .

Sangha (skt., lit .crowd, host) the Buddhist community . In a narrower sense, the sangha consists of monks, nuns and novices . In a wider sense, the sangha also includes lay followers .

163 – Khi cái áo cà-sa trải thẳng ra thì nó hình vuông, cho nên áo cà-sa còn gọi là áo vuông, chữ hán việt là phương phục (phương là vuông, phục là y phục, quần áo). Tôi nghĩ rằng chữ này ít dùng lắm . Khi dùng chữ “đầu tròn áo vuông” để chỉ nhà sư thì bất lịch sự, vì có ý nói đến cái đầu trọc mà người ta dùng để chế riễu các nhà sư .

Cà-sa phiên âm từ chữ phạn Kasaya .

164 – Thỉnh thoảng được thư với vài câu vui cười kể cũng hay ! Vâng, người ta nói mâm ngũ quả, tại sao đạo Phật lại nói tứ quả ? Đạo hữu đố tôi biết đó là bốn quả gì ? Nói quả đào thì đạo hữu cho rằng tôi nhớ ông Tề Thiên đi trộm trái đào của Tây Vương Mẫu . Nói quả na thì đạo hữu lại chê rằng chưa ngán mấy chục năm chiến tranh hay sao . Nói quả Phật thủ thì chắc ăn đấy nhỉ . Thôi, xin vào việc : tu Thanh văn thừa thì lần lượt đạt được bốn quả-vị từ thấp đến cao là : 1/ Tu-đà-hoàn (nhập lưu). 2/ Tư-đà-hàm (nhất lai). 3/A-na-hàm (bất lai). 4/ A-la-hán (bất sanh). Chịu chưa thầy ?

165 – Như Lai là gì ? Như là như thế, lai là đến . Tất cả các đức Phật quá khứ, hiện tai, vị lai đều đến với loài người như vậy, không khác . Kinh Kim Cang nói : «Như Lai không từ đâu đến, cũng không từ đâu đi », vậy Như Lai chính là tính thường trụ, thường hằng của vạn pháp vậy . Kinh tạng Pali nói thêm rằng Như Lai là bậc thánh đã chứng được tính chân thực và tính bình đẳng của các pháp và đến tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) để hóa độ chúng sinh .

Ta thường thấy trong các kinh, khi đức Phật Thích-Ca tự xưng thì ngài dùng chữ Như Lai.

166 – «Giáo hành lý tam kinh» nghĩa là gì ? Tam kinh là nói ba cuốn kinh chính của Tịnh độ tông, đó là : Kinh A-Di-Đà, kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ .

Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng . Pháp bảo có bốn loại là : giáo pháp, lý pháp, hạnh pháp, quả pháp,, nói ngắn là giáo,lý,hạnh,quả . Kinh Tâm Địa Quán giảng : « Hết thảy những thanh, danh, cú thuộc pháp vô lậu, phá tan vô minh, phiền não, nghiệp chướng gọi là giáo pháp . Các pháp hữu vi, vô vi gọi là lý pháp . Giới, định, tuệ gọi là hành pháp . Diệu quả vô vi gọi là quả pháp ». Đọc vậy, chúng ta thấy khó quá . Nói cho dễ hiểu : giáo, lý, hạnh, quả là lời dạy của Phật, nghĩa lý trong đó, sự tu hành và các đạo quả là do tu hành mà đạt được .

167 – Tứ đức có nhiều nghĩa . Theo luân lý xưa, tứ đức của phụ nữ là : công, dung, ngôn, hạnh . Tứ đức hay tứ hạnh là : hiếu, đễ, trung, tín . Theo Phật giáo thì Niết-bàn có tứ đức là : thường, lạc, ngã, tịnh . Bốn chữ này dính líu đến tứ điên đảo (bốn điều lộn ngược), đó là : vô thừơng mà cho là thường, buồn khổ mà cho là vui sướng, vô ngã mà cho là hữu ngã, bất tịnh mà cho là tịnh .

168 – Tục truyền rằng ở gần Ba-la-nại, người ta đào được một tấm đá có khắc chữ mà không ai đọc nổi . Sau, có một người dòng dõi cao sang và hiểu biết rất rộng tên là Ca Chiên Diên đọc được cho nhà vua nghe như sau : «Ai là vua trong các vị vua ? Ai là thánh trong các bậc thánh ? Thế nào là người ngu ? Thế nào là bậc trí ? Làm sao lìa được cấu uế ? Làm sao đạt được Niết-bàn ? Ai là kẻ chìm trong biển sinh tử « ? Ai là người tiêu diêu cõi giải thoát ? » . Tuy đọc được nhưng không trả lời được các câu hỏi đó . Ca Chiên Diên hứa với nhà vua trong bảy ngày sẽ trả lời . Đi tìm hỏi mọi thày giỏi đương thời, ai cũng chịu . Cuối cùng, Ca Chiên Diên đến thỉnh giáo đức Phật, được ngài dạy ngay rằng « Vua trong các vua là vua cõi trời thứ sáu . Thánh trong các Thánh là đức Phật đại giác . Bị vô minh nhiễm ô là kẻ ngu . Hay diệt hết các phiền não là bậc trí . Tu đạo, lìa tham sân si tức là lìa cấu uế . Hoàn thành giới, định, huệ, tức là chứng Niết-bàn . Người chấp trước ngã pháp chìm trong biển sinh tử . Người chứng được pháp tánh duyên khởi dạo chơi trong cõi giải thoát ». Nghe xong lời Phật, Ca Chiên Diên liền khai ngộ, lễ tạ và quy y Phật . Sau đó, ông là một trong mười đại đệ tử của đức Phật, «nghị luận đệ nhất ».

169 – 1/ Hòa Nam do chữ Phạn Vandana phiên âm ra . Vandana nghĩa là lễ bái, đỉnh lễ . “Hòa Nam thánh chúng” nghĩa là “đỉnh lễ các bậc Thánh”. 2/ Huyền nghĩa là sâu kín, thanh tịnh . Khi nói huyền môn là có ý chỉ đạo Lão hay đạo Phật . Hoa tạng là tên chỉ Tịnh độ của đức Phật Tì-lô-xá-na (Vairocana, tức là đức Phật đầu tiên, Phật tối sơ) mà cũng là của toàn chư Phật . 3/ Phi-hữu-phi-không, nghĩa là chẳng phải có, chẳng phải không . Đây là quan niệm của các bậc tu Đại thừa, vượt qua quan niệm chấp có của phàm nhân và quan niệm chấp không của Tiểu thừa .

170 – 1/ Chữ “vô học” khác hẳn với nghĩa ngoài đời . Bậc vô học là những vị không phải học nữa, và bậc hữu học là những người còn phải học thêm . 2/ Tứ đại là : đất, nước, gió, lửa (đại là lớn, không phải là đời). Thêm thức vào thì thành ngũ đại . Thêm không vào nữa thì thành lục đại . 3/ Đó là người Ấn tắm ở sông Hằng chứ không phải Phật tử . Họ tin rằng nước sông Hằng rửa sạch tội lỗi . Hằng hà sa số nghĩa là số cát ở sông Hằng, ý nói rất nhiều, không đếm nổi .

171 – 1/ Đôn Hoàng là tên một cái động ở phía Bắc nước Tàu, nơi đó người ta phát hiện được nhiều kinh sách Phật giáo rất quý . Nơi đó, khí trời khô ráo nên sách không bị ẩm mục . 2/ Vườn Lâm-tì-ni (nơi đản sanh đức Thích-Ca) ngày nay thuộc địa phận nước Nê-pan (Nepal). UNESCO đang vận động gây quỹ để trùng tu . Nhiều đạo hữu đã có cơ duyên tới hành hương ở đó . 3/ Chữ Phạn Pratyeka phiên âm là Bích-chi-ca, nói ngắn là Bích-chi . Pratyeka Buddha là Bích-chi-Phật . Các vị này quán 12 nhân duyên, diệt vô minh (do đó mà diệt cho đến hết, tức là cho đến lão, tử) nên giác ngộ, vì thế gọi là Duyên giác . Lại vì sinh ra nhằm lúc không có Phật ra đời, tự mình tu học mà giác ngộ nên gọi là Độc giác

172 – Kể “lục sư ngoại đạo” là những ai thì mệt óc quá . Chúng ta căn cứ vào lời của HT Thích Thiền Tâm như sau để hiểu do đâu mà có (tôi trích ngắn gọn thôi) : “Giáo lý Phệ-đà diễn biến qua ba giai đoạn là Phệ-đà thiên thư, Phạm thư và Áo nghĩa thư . Có những phái chịu ảnh hưởng của Phệ-đà, có học giả thoát ly tư tưởng Phệ-đà . Có nhiều phái xuất hiện, hoặc xung đột nhau, hoặc dung hòa nhau . Kiểm điểm lại, có thể chia các tư trào bấy giờ làm hai hệ thống : Phệ-đà và Phản Phệ-đà .
Hệ thống Phệ-đà tuy nhiều nhưng đáng kể chỉ có Lục đại học phái . Hệ thống Phản Phệ-Đà thì có Lục sư ngoại đạo”. (Phật học tinh yếu, quyển 1, trang 42 . Từ trang 43 đến trang 64, sách nói kỹ về 12 phái ấy).

“Sau khi đức Thích-Ca thành Phật, ngài ngự gần thành Xá Vệ mà giáo hóa . Sáu vị sư ngoại đạo muốn tranh tài với Phật . Khi vua Ba-tư-nặc bày ra cuộc tranh đấu về biện luận và pháp thuật thì họ thua Phật rất xa”. [ Theo Từ điển Đoàn Trung Còn . Sách này có kể tên sáu vị ấy nhưng khó viết và khó đọc, tôi ngại quá ! (thí dụ: ông A-ki-đa Sí-xá-khâm-bà-la)].

Phệ-đà hay Vệ-đà,Bệ-đà, Tỳ-đà phiên âm từ chữ Phạn Veda (Veda nghĩa là hiểu biết, trí thức) là sách thánh, là kinh luận của đạo Bà-la-môn, gồm có bốn bộ, gọi là Tứ Minh, nội dung rất rộng rãi, từ các bài ca, lời đọc trong khi hành lễ ở các đàn cho tới gieo quẻ, bày trận, kỹ thuật v.v… Tác giả chắc phải gồm nhiều người . Thời gian sưu tập có thể kéo dài hàng thế kỷ ..
(còn tiếp)

Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú – Montreal 2010 .

…………………………………….

BƯỚC VÀO CỬA PHẬT – Quyển 3- Montreal 2010

Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú

Đề tài ôn tập : Bài 2. CÂU CHUYỆN CANH KHUYA
Từ lúc qua đò Gián, đi dọc theo con đê rồi quẹo vào đường cái quan, hướng theo núi Gôi mà đi về phía Nam Định, có lẽ đã khá lâu vì chàng thư sinh cảm thấy mệt mỏi; hơn nữa mặt trời đã ngả về dãy núi đá vôi vùng Trường Yên sau lưng chàng.
Khi thấy cổng chùa, mắt chàng sáng lên vì đây tuy chưa phải là trường thi hương Nam Định, nhưng là nơi chàng đến nghỉ đêm nay.
Sau khi chào hỏi và trình thư giới thiệu của người quen, thư sinh được nhà sư mời vào nghỉ trong một căn phòng nhỏ, bên cạnh phòng của nhà sư. Phòng này quá đơn sơ, chứng tỏ chùa thuộc loại nghèo. Chùa vắng vẻ, chỉ có hai thày trò, một nhà sư đứng tuổi và một chú tiểu.
Tối đến, chú tiểu bưng khay cơm vào mời thư sinh, rõ ràng là cơm nhà chùa xứ quê; ngoài liễn cơm đỏ, còn một bát canh mướp mùng tơi, cạnh một chén cà và một bìa đậu phụ nướng. Thế mà thư sinh thấy ngon tuyệt.
Một lúc sau, chú tiểu vào dọn khay cơm và lễ phép mời chàng sang uống trà với nhà sư. Sau vài câu chuyện xã giao, thư sinh lân la hỏi về cuộc đời tu hành của nhà sư. Ông cho biết ông đi tu từ thuở nhỏ, theo thày học Phật bằng chữ Hán – vì thế được học thêm cả Nho và Lão – thuộc môn phái Trúc Lâm Yên Tử mà sơ tổ là Hương Vân Đại Đầu Đà tức là vua Trần Nhân Tông. Dòng thiền này hoàn toàn Việt Nam, do người Việt Nam sáng lập tại một ngôi chùa trên núi Yên Tử, truyền bá tại Việt Nam.
– Bạch thầy, nếu có người xin thầy cho nghe Phật pháp trong một lúc thôi thì thầy sẽ nói những gì ?
– Đức Phật thuyết pháp trong 45 năm, chỉ thuyết mà không viết. Sau khi ngài nhập diệt, có mấy cuộc kết tập để ôn lại những những lời giảng dạy của ngài. Lần thứ ba, người ta chép lại thành ba loại : Kinh, Luật, Luận, gọi chung là Tam Tạng. Thiên kinh vạn quyển, thế mà thí chủ bảo tôi nói trong một lúc thì nói sao nổi !
– Dù sao cũng xin thầy ban cho vài lời.
– Vậy thì tôi xin nói: Trên thế gian này, tất cả các hiện tượng mà người ta nhận được bằng các giác quan, đều là vô thường, nay còn mai mất, sớm nở tối tàn, chẳng có gì là vĩnh cửu cả. Mọi sự, mọi thứ – nhà Phật gọi là vạn pháp – đều tuân theo luật “thành, trụ, dị, diệt” hay “thành, trụ, hoại, không”, thay đổi có khác nhau chăng chỉ là nhanh hay chậm. Kiếp của phù du thì mau, kiếp của trái núi hẳn là lâu lắm. Dù sao, trong mỗi sát-na, thì vẫn có thay đổi, biến dịch. Đó là nói về hiện tượng, nhưng nhà Phật lại xác nhận rằng hết thảy mọi hiện tượng đều có chung một bản thể bất di bất dịch, thường hằng, vĩnh viễn. Bản thể này, các giác quan thông thường không thể “nhận thấy được”. Kinh sách có dùng một thí dụ thật hay, hay đến nỗi khó có thể tìm một thí dụ khác để thay thế được : Phật học ví các hiện tượng như các đợt sóng trên mặt đại dương ; muôn vàn sóng, mỗi mỗi khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một thứ, đó là nước. Sóng dụ cho hiện tượng, nước dụ cho bản thể.
– Chẳng hay điều ấy có ích chi cho xã hội ?
– Biết vạn pháp là vô thường thì chớ có bám víu vào làm chi. Tiền tài, danh vọng … đâu có bền. Nên tìm một cái gì vững bền hơn. Nếu cứ ham cái này, thích cái kia, đến độ ham quá, thích quá, lòng như lửa đốt thì dám làm những điều ác để thỏa lòng dục. Tham dục là gốc của khổ đau. Người con Phật được dạy “thiểu dục tri túc”, kẻ xuất gia được luyện “diệt dục”. Bản thân bớt tham, tránh điều ác, làm điều lành, như vậy, xã hội chẳng tốt hơn hay sao ?
– Tiểu sinh thấy vấn đề “bản thể” thật khó “vào” , vì có cách nào mà “thấy” đâu !
– Đó là khía cạnh tôn giáo của vấn đề. Xác nhận một điều mà không “chứng minh” điều ấy, quả thật là khó chấp nhận. Tôn giáo có giáo điều, không chứng minh ; đạo Phật có giáo điều của đạo Phật. Đó là “vạn pháp có chung một bản thể”. Nói cách khác, dùng cho Phật tử : “ai ai cũng có Phật tánh”. Phật tánh là gì ? Bất sinh, bất diệt, bất tăng, bất giảm, bất cấu, bất tịnh … Không một lời nào để diễn tả “nó” được, phải “cảm”, phải “ngộ”, phải “giác” Lại hỏi “làm sao mà giác?”. Có nhiều cách, nhiều pháp môn, tùy người ta lựa chọn theo căn cơ của mình.
– Trong khi thầy đang đi tìm giác, thầy có nghĩ rằng xã hội đang cần thầy không ?
– Thí chủ dùng chữ nhẹ nhàng, người khác nói trắng ra rằng tôi là kẻ ăn bám xã hội, “trốn việc quan đi ở chùa”. Nhưng thí chủ ạ, tôi và chú tiểu hàng ngày làm việc quần quật, cuốc xới mấy sào vườn để độ nhật, không hề ăn bám làng xóm, đồng bào. Một thiền sư đã dạy: “Một ngày không làm là một ngày không ăn”. Tôi không lên rừng, tôi không lên núi, tôi ở đây sống giữa bà con và mang lại cho bà con những giúp đỡ về tinh thần, những dìu dắt về tâm linh mỗi khi bà con cần đến.
– Bạch thầy, nếu tiểu sinh không lầm, thầy đã coi mọi thứ như huyễn rồi, thế thì còn lo việc hàng ngày cho mình và cho người làm gì, mệt cả thân lẫn trí ?
– Quả thật, giấc mộng cả đấy. Trong giấc mộng, người nằm mộng thấy mình nói thật, thấy mình nghĩ thật, thấy mình làm thật, tỉnh dậy nhiều khi toát mồ hôi. Nay mọi pháp đã là huyễn, thì xử sự như huyễn, tu như huyễn. Nhưng nói như thế làm gì mà hóa ra gàn! Đây này, có hai sự thật, sự thật thế gian và sự thật xuất thế gian, nói khác đi là: sự thật của thế giới tương đối và sự thật tuyệt đối. Theo tuyệt đối thì thế này, theo tương đối thì thế kia. Kẻ tu hành tùy cơ xử sự mà không để mất mục tiêu của mình. Chắc hẳn thí chủ đã nghe nói về chuyện một một vị bồ-tát kia, thấy mẹ con con hổ đói quá, bèn nhảy xuống vực bố thí thân mình cho hổ ăn. Vô lý quá, điên quá phải không? Xuất thế gian là như thế, nhưng phải đi đến một trình độ nào đó, đạt đến một mức tuyệt đối nào đó, không phải chỉ mặc áo cà-sa là được đâu! Thế gian có những quy luật của thế gian, có ăn mặc, có giận hờn, buồn tủi, vui mừng… Kẻ tu hành tự kiểm soát, tự kiềm chế, điều thân, điều tâm mong ngộ rồi nhập vào bản thể – cái bản thể mà không ngôn từ nào diễn tả cho nổi, cái bản thể mà chúng tôi gọi là pháp thân.
– Bạch thầy, thế rồi việc đời sẽ ra sao ?
– Việc đời vẫn theo quy luật của vũ trụ, vẫn theo luật duyên khởi, luật nhân quả nghiệp báo, luật thành trụ hoại không. Nhưng kẻ thành đạo không hưởng cái vui giải thoát một mình đâu, vì bồ-tát đạo dạy rằng: Chúng sinh còn thì còn phải giúp chúng sinh. Cho nên có câu xắn tay áo đi vào chợ trong cửa thiền.
– Quả là hay ! Xuất thế gian mà chẳng ly thế gian. Tiểu sinh xin phép lấy việc thế gian gần đây để trình thầy: quân Lang-sa đánh phá Thăng Long, quan Tổng đốc cùng con trai, con rể quyết giữ thành, đã hy sinh cả nhà. Có một quan chưởng binh và một trăm chiến sĩ dưới quyền đã chiến đấu anh dũng và cùng bỏ mình ở ô Đông Hà. Nay đồng bào gọi ô Đông Hà là ô Quan Chưởng. Thầy có nghe thấy việc này không ?
– Mọi người nghe thấy thì tôi cũng nghe thấy. Thí chủ cho rằng tôi đã điếc hai tai chăng? Tôi đi tu, đúng vậy ; song tôi là người Việt Nam cho nên cái đau của người Việt Nam là cái đau của tôi. Có khác chăng là khác ở cách bộc lộ cái đau ấy, cách phản ứng với cái đau ấy mà thôi.
– Bạch thầy, tiểu sinh nghe cái đau ấy là cái nghiệp, cần phải trả hết cái nghiệp ấy đi, có phải như thế không ?
– Đúng thế, gây nhân, chịu quả, hứng nghiệp, là một quy luật bất khả dịch. Đạo Phật có dạy như vậy, nhưng không phải chỉ dạy có vậy. Cải nghiệp được mà, nhà nho nói “đức năng thắng số” mà. Gây nhân lành để tạo ra cái lá chắn đỡ mũi tên của nghiệp ác được chứ! Khía cạnh này, thí chủ đã nghe thấy chưa?
– Đa tạ thầy đã chỉ giáo ; tiểu sinh nghe nói thoát tục nên mới mạo muội đem cái đau của dân tộc ra trình với thầy để nghe thầy chỉ giáo, chứ không hề có ý láo xược nghĩ đến câu “thương nữ bất tri vong quốc hận” ; xin thầy hiểu cho. Thầy đã cho hầu chuyện, tuy khuya rồi, xin thầy ban cho vài điều về đất nước.
– Thí chủ quả là khéo, muốn thử ý tôi. Không sao đâu. Đối với tôi, cái ngã nó khá nhỏ, tôi không để tâm dù cho thí chủ nghĩ có rằng tôi “mũ ni che tai”. Thí chủ ạ, tiếng vẫn lọt qua mũ ni chứ!
– Bạch thầy, tiểu sinh còn ít tuổi, nghĩ ngợi chưa chín chắn. Mong thầy dạy cho vài điều về đất nước.
– Vâng, thái rồi bĩ, bĩ rồi thái. Đang bĩ thì lo xây dựng cái thái. Nhớ lại ngày đại phá Mông Cổ, đại phá Minh, Thanh, nhớ lại ngày đọc Hịch Tướng Sĩ, đọc Bình Ngô Đại Cáo… , đó là sử. Coi việc trước mắt, thấy chướng tai gai mắt, luân thường đảo lộn, thấy đau thương nhục nhã. Đó là hiện tại. Rồi tới tương lai. Nhưng tương lai ra sao? Phải có những người quân tử – gọi vậy cho tiện, khỏi phải tìm chữ khác – nhìn xa hơn người thường. Vì thế mới có câu “nhìn xa trông rộng”. Thấy đường đi nước bước của hiện tại, học các bài học của quá khứ, rồi tìm ra, nhận thấy, nhận rõ bước sắp tới, và cả một đường dài vị lai, thế mới là lãnh đạo.
– Tiểu sinh thành thực xin thầy hé cho thấy con đường vị lai.
– Không dám. Không phải ai cũng nhìn được xa. Nếu tôi nhìn được xa, hẳn là tôi đã không ngồi tu ở chùa này. Ngài Trần Khánh Dư quảy “gánh càn khôn” xuống ngàn, ngài Trần Nguyên Hãn gánh dầu đi bán, tìm bạn đồng hành – và tìm thấy – để cùng vào Lam Sơn gặp minh chủ . Các vị đó và nhiều vị khác nữa là những người khổng lồ, đã nhìn được xa hơn mà còn có cả viễn kính để nhìn xa nữa, chỉ đường cho dân tộc tiến lên. Kẻ hèn này không theo được đâu.
– Chẳng lẽ khoanh tay ?
– Không, không. Dân tộc không thể mất được nếu như văn hóa còn. Văn hóa kể từ cái răng, cái tóc, miếng ăn, đồ mặc … cho đến đời sống tâm linh. Theo tôi, mặt tâm linh vô hình mà lại hữu hiệu. Nếu không đánh mất đời sống tâm linh thì không thể mất dân tộc được. Thí chủ ạ, nếu mỗi người tìm giữ tâm linh ấy theo cách của mình thì có lẽ hay lắm. Nhà Nho mà không “hủ Nho”, nhà Thích mà không “hủ Thích”, gắng nhắm trúng cái gì bền vững nhất đối với tâm linh của dân tộc ta, thì mới là hay, là chánh, là tiến. Tôi biết nhà nho đôi khi làm thơ châm biếm chúng tôi, chúng tôi chỉ cười, chẳng lẽ chúng tôi làm thơ nói lại? Trong Phật giáo, người ta có nói đến một thời kỳ gọi là “mạt pháp”, nay chắc là thời đó, nhưng “y pháp, bất y nhân”.
– Đa tạ, đa tạ. Thầy có làm thơ, xin thầy cho nghe mấy bài.
– Không dám. Người Việt Nam nào mà chẳng làm thơ. Tiếng mình đã là thơ rồi mà. Có thiếu chăng là thiếu cái nội dung của thơ, cái hồn của thơ. Đi tu như chúng tôi, cần nhất là cái hạnh “từ bi”, nôm na là “cho vui, cứu khổ”. Cuộc đời là bể khổ nên phải học cứu khổ, mà muốn cứu khổ thì phải quên “ngã”, đồng thời biết rung động. Trước khi đến bậc bồ-tát hoàn toàn giác ngộ, chuyên tâm cứu khổ cho vui, người tu hành phải qua thời biết rung động. Từ rung động này mà hay thành nhà thơ. Nhưng phải nghe cho rõ: tôi nói “hay thành nhà thơ” chứ tôi không nói “thành nhà thơ hay”. Thí chủ muốn đọc thơ của Thích tử thì tôi xin giới thiệu thơ của Tam tổ Huyền Quang, thuộc dòng Trúc Lâm Yên Tử.
Đêm đã khuya, thư sinh từ biệt nhà sư, về phòng nghỉ. Tuy mỏi mệt, thư sinh vẫn trằn trọc không ngủ được. Nhà sư này nói “không biết nhìn xa”, nhưng ít nhất cũng đã nhìn được gần, nhìn ra con đường đi cho bản thân, nhìn ra bổn phận đối với xóm làng và biết đau cái đau của dân tộc. Đức Thích-Ca đã nhìn được xa hơn, tìm ra đường thoát khổ cho hết thảy chúng sinh. Còn con đường của đất nước này, ai nhìn ra, ai đã nhìn ra, ai sẽ nhìn ra? Đầu thế kỷ XV, có nhà chiến lược kiêm thi sĩ đã viết nên Bình Ngô sách; thế kỷ này, có ai đây?
Sáng hôm sau, từ biệt nhà sư, chàng thư sinh lại lên đường nhưng không đi về hướng Nam Định để tìm nhà trọ, thuê lều chõng sửa soạn đi thi Hương, mà lại quay về làng. Sau đó, không ai biết chàng đi đâu.
Có người nói rằng chàng đi tìm những vị biết nhìn xa. □

Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú .

……………………………………………..

Bài thơ NHỚ CHÙA

Huyền Không Thích Mãn Giác
Nguồn: Phật tử Việt Nam-16/10/2006

Xin giới thiệu bài thơ bất hủ của Hòa thượng Thích Mãn Giác, bút hiệu Huyền Không về hình ảnh ngôi chùa Việt Nam.

****

Từ thuở ra đi vắng bóng chùa
Đường đời đã nhọc chuyện hơn thua
Trong tôi bừng dậy niềm chua xót
Xao xuyến mơ về lại cảnh xưa

Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng
Có con đường đỏ chạy lang thang
Có hàng tre gợi hồn sông núi
Im lặng chùa tôi ngập nắng vàng

Có những cây mai sống trọn đời
Bên hàng tùng bách mãi xanh tươi
Nhìn lên phảng phất hương trầm tỏa
Đức Phật từ bi miệng mỉm cười

Tôi nhớ làm sao những buổi chiều
Lời kinh giải thoát vọng cao siêu
Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi
Cầu nguyện dân làng sống mến yêu

Vì vậy làng tôi sống thái bình
Sớm khuya gần gũi tiếng chuông linh
Sắn khoai gạo bắp nuôi thôn xóm
Xây dựng tương lai xứ sở mình

Tối đến dân quê đón gió lành
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi
An ủi dân hiền mọi mái tranh

Trầm đốt hương thơm bay ngạt ngào
Thôn trên xóm dưới dạ nao nao
Dân làng tắm gội lên chùa lễ
Mười bốn, ba mươi mỗi tối nào

Biết đến bao giờ trở lại quê
Phân vân lòng gởi nhớ nhung về
Tang thương dù có bao nhiêu nữa
Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê

Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông

Huyền Không TMG

……………………………….

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics