1.Bản tin về tuyển tập Tùy Bút DTL2.Duy nhất,một ngọn cờ Tổ quốc(DTL)3.Phan Lạc Phúc-Nhớ về..4.'Đại gia'NCK Duyên(NV)

Đã phát hành tùy bút “CHỈ NHỚ NGƯỜI THÔI, ĐỦ HẾT ĐỜI”
Nguồn:dutule.com-05/20/2016 07:43 AM)

Garden Gorve, (ngày 20 tháng 5-2016): Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.

Với mẫu bìa do Uyên Nguyên design; chân dung tác giả của nhiếp ảnh gia Phạm Hải Nam; Lê Giang Trần dàn trang và, nhiều hình ảnh, tư liệu cùng bút tự của một số nhân vật nổi tiếng ở cả hai lãnh vực Văn học và Nghệ thuật, tác phẩm này được văn giới ghi nhận là đáng qúy, nên đọc…

Dưới đây là nguyên văn “Lời nói đầu” của HT Productions, trước khi bước vào nội dung tuyển tập.

.

Lời nói đầu tùy bút

“CHỈ NHỚ NGƯỜI THÔI, ĐỦ HẾT ĐỜI”.

“…Nếu không kể tùy bút ‘có chút gì tội nghiệp’ viết trước tháng 4-1975, do một nhà sưu tầm sách cũ ở Saigon, copy, gửi cho, thì 20 tùy bút còn lại trong tuyển tập này là kết quả (có chọn lọc và, hiệu đính) của năm-năm-tùy -bút-du-tử-lê (2011-2016); chưa hề in trong bất cứ một tập sách nào.

Hầu hết những tùy bút này được tác giả viết ở dạng bán-hồi-ký – – Phản ảnh ít / nhiều phần đời riêng, tựa tác giả soi gương, nhìn lại cuộc lữ hành nhân sinh chìm nổi gập ghềnh, khi ông đã bước vào tuổi 70, ở xứ người.

Tuy không sắp xếp theo thứ tự thời gian, nhưng các tùy bút vẫn có chung mạch chảy giữa đời thường và văn chương. Giữa mất / còn. Giữa hạnh phúc / khổ đau… Giữa sống / chết của một đồng tiền hai mặt.

Hơn một lần, ông nói, đại ý ‘chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời’ là những trang văn xuôi, ông muốn ghi lại những lời tự-tình, gửi tới bạn đọc, gửi tới bằng hữu lòng biết ơn của tác giả

Ông nói:

“Ai trong chúng ta cũng chỉ có một đời để sống. Nhưng kỷ niệm (luôn cả những kỷ niệm xát muối), vốn có cho nó những định-nghiệp riêng. Nên tôi tin, chúng sẽ ở được với mai sau…”

.

Sau những ấn phẩm gần đây nhất, như “Với nhau, một ngày nào” (tái bản), “Phác họa toàn cảnh 20 năm sinh hoạt VHNT miền Nam 1954 -1975 (một bộ hai cuốn) và, “Sơ lược 40 năm VHNT Việt 1975-2015” (một bộ 2 cuốn) thì, tập tùy bút này, là ấn phẩm thứ 70 của nhà thơ Du Tử Lê. Tất cả đều do công ty Amazon in và phát hành toàn cầu.

Nếu không muốn order thẳng từ công ty Amazon, quý vị có thể đặt mua tại nhà sách Tự Lực:buybooks@tuluc.com
Muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm thư về: phanhanhtuyen@gmail.com, (*)

Tới nay, công ty Amazon vẫn chưa nhận order của bạn đọc từ VN. Do đó, bạn đọc, thân hữu ở VN, nếu muốn có sách Du Tử Lê, xin quý vị vui lòng liên lạc với cô Sóc: 093-604-4722.

Trân trọng,

Cơ sở HT productions.

…………………………….

(*) Ấn phí 25 Mỹ kim / 1 cuốn.
MỤC LỤC

“CHỈ NHỚ NGƯỜI THÔI, ĐỦ HẾT ĐỜI”.

-Pleiku, phần sót lại.

-Có chút gì tội nghiệp.

-Tôi đọc Lê Xuyên.

-Mùa hè, có thực.

-Kho tàng dưới lòng đất (Duy Thanh).

-Tháng 8, thầy tôi, Vũ Đình Tuyến.

Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời.

-Từ những góc khuất, Việt Dzũng.

-Đêm, vẫn mưa, như thế.

-Vực sâu và, đỉnh cao (Đỗ Vẫn Trọn).

-Em đi bình an, may mắn.

-Boston, đêm trong ký ức.

-“Vũ trụ” của một tài hoa Việt (Phạm Tăng).

-Quê hương thu nhỏ.

-58 năm, đêm giã từ Trần.

-Kẻ sĩ thời nhiễu nhương, Vũ Ánh.

-Vũ Thư Hiên, bóng tối và, ánh sáng, một tài hoa.

-Cảm ơn sách vở nuôi em lớn.

-Em ơi, Hà Nội phố.

-Một người viết truyện tuổi thơ, tôi biết (Nguyễn Ngọc Hoài Nam).

-Duy nhất, một ngọn cờ tổ quốc (Hoàng Cầm).

…………………………………………………………………………………………….

duy nhất, một ngọn cờ Tổ Quốc.
Nguồn:dutule.com-03/30/2016 02:17 PM

Tác giả : Du Tử Lê

Chưa đầy 2 tháng sau cái chết của nhà thơ Hữu Loan (ngày 18 tháng 3 năm 2010,) văn giới Việt Nam trong và ngoài nước, lại nhận được tin buồn: Thành viên cuối cùng của phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm, nhà thơ Hoàng Cầm, đã từ trần tại Hà Nội ngày 6 tháng 5 năm vừa qua, hưởng thọ 88 tuổi. (1)

Khi nhận được tin bất ngờ này, T. nói, như vậy là chúng ta không còn cơ hội thực hiện điều mình muốn ít nhất, một lần nữa với anh Hoàng Cầm rồi!

Tôi hiểu T. nói gì.

Tôi nhớ lần chót, về Hà Nội, nhân có xe, chúng tôi gọi điện thoại, mời ông đi ăn tối. Ông nhận lời, hỏi ăn cái gì? Ở đâu? T. nói:

“Để anh chọn. Tụi này dân nhà quê, biết gì đâu mà chọn với lựa”

Tác giả “Lá diêu bông” nói:

“Mình đi ăn Chả cá Lã Vọng nhé. Anh chị về đây, đã đến đó ăn lần nào chưa?”

Tôi đáp, chưa và cũng từng nghĩ tới “Chả cá Lã Vọng” mà chưa có dịp. Ông bảo, vậy thì tốt quá vì tuy ở đây, nhưng đã lâu, quá lâu, ông cũng chưa có dịp trở lại. Ông hỏi thêm:

“Nếu tôi đi với hai người bạn nữa thì có trở ngại gì không?”

Câu trả lời dĩ nhiên là không. Trái lại.

Du Tử Lê và Hoàng Cầm
Buổi tối, nhà thơ Hoàng Cầm và các bạn ông đi trước. Chúng tôi theo chân ông, dò dẫm từng bước lên chiếc cầu thang hẹp, ọp ẹp, khó đi. Chưa lên hết cầu thang, tiếng ồn, tiếng réo xèo xèo cùng mùi thơm và, khói từ trên gác ném xuống, như những khúc nhạc dạo đầu dành cho niềm hào hứng của chúng tôi – – Những người khách lần đầu tiên, đến “Chả cá Lã Vọng”…

Nhưng điều khiến tôi hào hứng hơn cả, là niềm vui lấp lánh trên gương mặt thông minh, nụ cười duyên dáng của tác giả “Bên Kia Sông Đuống”. Dù thời gian đã để lại nhiều nếp nhăn trên đó. Tựa nó muốn nhắc người thi sĩ nổi tiếng từ thời kháng chiến rằng, ông có là ai, nổi tiếng, đào hoa đến đâu thì, cũng vẫn là một thứ con tin bất lực trong bàn tay thô nhám, sần sùi của thời gian.

Suốt bữa tối, thi sĩ Hoàng Cầm là người nói say sưa nhất. Khi ông nhắc chuyện kỷ niệm thời kháng chiến với những người bạn văn nghệ của ông. Khi ông hỏi chúng tôi, sinh hoạt hàng ngày của chúng tôi ở xứ người… Tuy nhiên, tới lúc ra về, ông bỗng trở nên trầm mặc. Ít nói. Tôi đồ chừng ông mệt hoặc đã tới…”cữ”. Nhưng, không phải!

Trước khi bước xuống xe, ông cầm tay tôi, rung rung nhiều lần, hỏi:

“Liệu chúng ta còn có dịp gặp lại nhau?”

Tôi nói:

“Chắc chắn còn nhiều lần nữa anh ạ. Giọng nói của anh còn tốt quá mà. Người ta bảo ‘nhất thanh nhì sắc mà anh!”

Trong xe, ông vẫn bịn rịn, nắm chặt tay tôi, lắc đầu, vắn tắt:

“Hy vọng thôi! Khó lắm đấy!”

Trên đường về khách sạn, T. và tôi cùng im lặng. Tựa mỗi đứa không thể tự trả lời cho mình, những câu hỏi tế nhị, cất lên từ linh cảm mơ hồ, đầy nghi hoặc.

Cuối cùng, trước khi ngủ, T. bảo:

“Tương lai, nếu còn có dịp trở lại Hà Nội, anh nhớ mời anh Hoàng Cầm trở lại Chả cá Lã Vọng nha anh”.

Tôi nói:

“Đương nhiên”.

Nhưng tin thi sĩ Hoàng Cầm đã “đi xa” khiến cho sự “đương nhiên” của tôi, trở thành vô nghĩa.

Dù Chả cá Lã Vọng vẫn còn đó. Đầu con ngõ dẫn vào ngôi nhà hẹp, 4 tầng vẫn còn đó – – Riêng mẩu bìa cứng dán đầu ngõ, chỉ có hai chữ “Hoàng Cầm” có thể không còn… Mọi thứ đã đổi thay. Những thay đổi ở cấp số nhân, theo tôi, với những người đã nhiều tuổi, lại còn có một cuộc sống bão tố như cuộc sống của thi sĩ Hoàng Cầm.

Trước sau gì, cuộc đời cũng sẽ lặng lẽ khép lại từng chương sách riêng của mỗi đời người. Cái còn chăng là những con chữ mang tên Hoàng Cầm, đã và sẽ tìm được cho nó một đời sống khác. Một đời sống mênh mông, thênh thang giữa vĩnh hằng đất nước.

Là một trong những kiện tướng của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, mấy năm cuối đời, nhà thơ Hoàng Cầm bị bại liệt sau một tai nạn té ngã. Tất cả mọi sinh hoạt của ông diễn ra trong một căn phòng nhỏ, trên tầng lầu thứ tư, ngôi nhà nằm sâu một con ngõ đường Lý Quốc Sư, Hà Nội.

Tùy trình độ, vị trí, cảm quan của mỗi người, cũng như tùy hoàn cảnh, tâm cảnh riêng mà, ta có những đánh giá, kết luận về sự nghiệp thi ca, nhân cách đời thường của tác giả tài hoa này.

Dù vậy, về phương diện sáng tác, người ta vẫn có một số tiêu chí căn bản, để xét định giá trị một tác phẩm. Một sự nghiệp.

Những tiêu chí thông thường, phổ cập nhất là sự quán chiếu trên hai yếu tố: Ý nghĩa hay “thông điệp” và, cấu trúc xương sườn của tác phẩm ấy.

Ở cả hai lãnh vực vừa kể, yếu tố độ sâu rung cảm và, tính mới lạ, là những thước đo nhiều thuyết phục nhất.

Một cách tổng quát, nhà thơ Hoàng Cầm là một tài năng đặc biệt của thi ca Việt Nam thời cận đại. Thơ của ông có được đỉnh cao chói lòa và, độ sâu truyền bá.

Trước nhất, ngay tự bước khởi nghiệp thi ca của mình, với những vở kịch thơ như “Hận Nam Quan”, rồi “Kiều Loan”, phổ biến từ những năm giữa thập niên 1940, Hoàng Cầm không những đã xác lập cho mình, vị trí hàng đầu ở thể loại kịch thơ; mà, ông còn đem những vòng nguyệt quế, những vương miện về cho thể lọai thơ đó nữa.

Kế đến, tầm cỡ hay kích thước lớn lao của thơ Hoàng Cầm, nằm nơi những bài thơ dài hơi. Những trường khúc đòi hỏi tác giả những lao tác tinh thần và trí tuệ bền bỉ, như những tập-đại-thành hay, tựa những cánh chim đủ năng lực soải theo chiều dài chảy xiết và, cuộn sóng những trường giang.

Tôi muốn nói tới những bài thơ trên dưới một trăm câu của ông. Những bài thơ như “Đêm Liên Hoan”, “Bên kia sông Đuống”…

Tôi muốn nói, những bài thơ của ông, tự thân, có được những trái tim lớn như trái tim Việt nam, thời đầu cuộc cách mạng kháng chiến chống Pháp.

Tôi muốn nói, những bài thơ của ông, tự thân có cùng nhịp thở bập bùng lao tới của toàn dân: Sự đồng lòng xô sập bức tường nô lệ, trải máu mình trên từng thước đường giải phóng quê hương.

Nói thế, không có nghĩa, thi ca cận đại, hay thời đầu của cuộc kháng chiến bi tráng kia, không có những bài thơ yêu nước khác.

Nhưng, sự khác biệt ở chỗ cường độ rung động, nhịp đập chân thiết tới nghẹn ngào của tình yêu ấy…

Ở điểm này, Hoàng Cầm không nói về tình yêu nước mà, thơ ông chính là tình yêu đất nước. Đó là một tình yêu vàng ròng. Thuần khiết.

Chính tính vàng ròng, thuần kiết, chân thiết tới nghẹn ngào đó, của thơ Hoàng cầm mà thơ ông trở thành những bó đuốc nồng nàn, cháy rát một niềm tin. Hoặc như những liều thuốc bổ cực mạnh, gia tăng nhiệt lượng yêu nước, thương nòi của thanh thiếu niên Việt Nam thuở ấy.

Những người tham gia kháng chiến giai đoạn đầu của cuộc tranh đấu dành độc lập cho Việt Nam kể rằng, mỗi khi bài “Đêm liên hoan” của Hoàng Cầm được trình diễn trên sân khấu dã chiến ngoài trời, trong rừng sâu, thì cả ngàn người tham dự giống như nhập đồng. Họ, những người dự khán cuộc đọc thơ, trở thành hiện thân của chính bài thơ.

Họ, những người dự khán cuộc đọc thơ, đã cụ thể hóa ý nghĩa của bài thơ, ngay tự những câu thơ mở đầu bài thơ:

“Đêm Liên Hoan! Trời ơi, đêm Liên Hoan!
Đầu người nhấp nhô như sóng biển ngang tàng
Ta muốn thét vỡ toang lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết Việt Chính Đoàn.
– Anh từ phương nào lại?
– Tôi từ đất dấy lên…”

Câu hỏi “anh từ phương nào lại”? không là câu hỏi cho một người. Câu hỏi đó, cho mọi người.

Câu trả lời “tôi từ đất dấy lên”, không là câu trả lời của một người. Mà đó là câu trả lời của muôn người (như một).

Cũng vậy. Những câu hỏi và những câu trả lời kế tiếp:

“- Anh từ đâu đến đó?
– Tôi đi giết giặc đây”

Rồi:

“-Gia đình anh ở đâu?
– Mẹ hiền tôi đã khuất
Nhưng trước khi nhắm mắt
Mẹ mừng cho đàn con…”

Rồi nữa:

“-Anh giết bao nhiêu giặc mà mắt anh long lanh?
– Mời anh lên rừng xanh
Hỏi những cành lá biếc

(…)

“- Trong tiểu đội anh, những ai còn ai mất?
– Không, không ai còn ai mất!
Ai cũng chết mà thôi!
Kẻ trước người sau lao vào giặc
Giữ vững ngàn thu một giống nòi”…

(Hoàng Cầm, “Đêm Liên Hoan”.)

Tất cả vẫn là những câu hỏi, không cho một mà, hết thẩy mọi người. Tất cả vẫn là những câu trả lời, không của một mà, hết thẩy dân tộc.

Cả bài thơ được xây dựng trên một cuộc đối thoại phương cương, không chỉ giữa hai nhân vật mà, giữa nhiều nhân vật. Những nhân vật cùng đi ngược cơn bão nô lệ, để làm nên những trang sử độc lập mới.

Nhìn lại lịch sử thi ca Việt Nam từ thời thơ chữ Hán, chữ Nôm tới thời thơ Tiền chiến, nếu không kể những tiểu thuyết văn xuôi (mà chúng ta quen gọi là tác phẩm cổ điển văn vần) thì, chúng ta có rất ít hình thái “đối thoại” trong thơ.

Ở bài thơ này, về phương diện cấu trúc, loạt “đối thoại” tôi vừa nêu ra, là xương sống hay, cột chống nâng, dựng toàn bộ bài thơ, ngẩng mặt, ngạo nghễ đứng lên.

Trong một bài thơ khác, bài “Lá Diêu Bông”, tác giả “Đêm Liên Hoan” cũng sử dụng hình thái “đối thoại” vốn là điểm mạnh của ông.

Ở bài thơ này, mặc dù chúng không giữ vai trò “xương sống” hay “cột chống” nhưng, vẫn cần thiết, như những đáp số cụ thể, cho những ẩn số vốn huyễn tưởng là chân dung của bài thơ ấy.

(Có người ghi nhận rằng, nhà thơ Hoàng Cầm viết bài “Lá Diêu Bông” từ năm 1959, nhưng mãi nhiều năm sau, những người yêu thơ ông mới biết tới, nhờ sự “hiểu lầm” rồi dẫn tới việc phổ nhạc của nhạc sĩ Trần Tiến…)

Vỏn vẹn có 25 câu, không là những đối thoại trực tiếp; nhưng qua những cụm từ ám thị, như: “Chị bảo – Đứa nào tìm được Lá Diêu Bông…” Hay: “Chị chau mày – Đâu phải Lá Diêu Bông…” Hoặc nữa: “Chị lắc đầu – Trông nắng vãn bên sông” (2)… thì, hình thái đối thoại gián cách này, vẫn cho thấy phần nào đặc tính thơ Hoàng Cầm vậy.

Tóm lại, với cá nhân tôi, bài “Đêm Liên Hoan” của Hoàng Cầm, đã san bằng được khoảng cách giữa độc giả với chữ, nghĩa, tư tưởng… của tác giả.

Cũng như bài “Bên Kia Sông Đuống”, hồn tính thi ca Hoàng Cầm nơi bài thơ vừa kể, tuồng đã nối, nhập được hồn tính thiêng liêng giữa người chết vào kẻ sống…

Nên, nó như ngọn cờ chung. Không đảng phái. Không chủ nghĩa. Không sắc mầu xanh, đỏ. Nó mang tính “duy nhất một ngọn cờ tổ quốc”!

Buớc qua lãnh vực truyền bá thi ca thì chúng ta đừng quên rằng, tới cuối thập 1940, trong vùng kháng chiến, sự phổ biến một bài thơ là điều thậm khó khăn. Nó càng khó khăn hơn nữa, khi đó lại là những bài thơ dài hàng trăm câu!

Vậy mà, thơ Hoàng Cầm ở giai đoạn này, vẫn được những người đi kháng chiến chép tay. Và thuộc lòng.

Ở giai đoạn này, người ta cũng ghi nhận được sự kiện tương tự với một số thơ của Quang Dũng, Hữu Loan…

Nhưng, nếu thơ của Quang Dũng mang nhiều tâm sự cá nhân liên quan tới sinh quán hoặc Hà Nội, nơi ông vừa từ bỏ; và Hữu Loan với “Mầu Tím Hoa Sim,” là một chuyện tình cảm động, đau đáu nỗi niềm tử biệt, sinh ly thì, “Đêm Liên Hoan” hay “Bên Kia Sông Đuống” của Hoàng Cầm, lại là những bài thơ được lóng sạch tính cá nhân. Nó không có một chút nhân thân Hoàng Cầm, cá biệt.

Tôi cho đó là hai bài thơ tiêu biểu nhất. Cụ thể nhất. Trực tiếp đi tới đầu nguồn ý nghĩa của cuộc lên đường làm thành lịch sử của lớp thanh, thiếu niên Việt Nam thời chống Pháp, cận đại.

Chính họ, chính những con người, những nhân vật “trong” “Đêm Liên Hoan”, “ở” “Bên Kia Sông Đuống” đã làm nên lịch sử.

Do đó, là tác giả, Hoàng Cầm cũng chính là mặt bên kia của đồng tiền lịch sử ấy.

Hôm nay, tác giả đã mất. Hoàng Cầm đã đi xa. Nhưng “Đêm Liên Hoan”, “Bên Kia Sông Đuống”… của ông, sẽ ở lại với lịch sử, vì tính:

“Duy nhất một ngọn cờ Tổ Quốc”!

(Calf. May 10 2010.)

_________

Chú thích:

(1), (2) Nguồn Wikipedia – Mở.

………………………………………………………………

PHAN LẠC PHÚC – Nhớ Nguyễn Cao Đàm- Trần Cao Lĩnh
Nguồn:dutule.com-05/07/2016 11:09 AM

Tác giả : Phan Lạc Phúc

Trong tủ sách ngày xưa của tôi có một cuốn tôi rất quý. Đó là cuốn sách hình “Việt Nam Quê Hương Yêu Dấu” của hai tác giả Nguyễn Cao Đàm và Trần Cao Lĩnh. Cuốn sách rất đẹp, cả về hình ảnh lẫn văn chương, đặc biệt có lời đề tặng rất thân ái của hai tác giả. Cao Đàm & Cao Lĩnh là hai nghệ sĩ nhiếp ảnh lớn của Việt Nam cũng như quốc tế, “tranh” của các ông đẹp là lẽ dĩ nhiên rồi khỏi phải khen “phò mã tốt áo”, nhưng đối với tôi, cuốn sách còn có một thú vị riêng. Tôi vốn là một người sinh trưởng ở thôn quê, lớn lên sau lũy tre xanh, quen thuộc với ruộng đồng, với cây đa đầu làng, rặng tre trước ngõ. Sau này lớn lên, thời cuộc đẩy đưa, tôi di cư vào Nam sống ở đô thị, quen với văn minh kỹ thuật, bên ngoài dù có “bắng nhắng” đến đâu chăng nữa nhưng bên trong tôi vẫn là một anh nhà quê. Những lúc nửa đêm về sáng, hoặc là những khi canh tàn- rượu tỉnh, một mình một bóng thấy nhớ nhà, nhớ quê ghê lắm ông ơi!” “Mình về mình có nhớ ta- Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”. Những lúc ấy đem cuốn “Việt Nam Quê Hương Yêu Dấu” ra xem, thấy sao mà bồi hồi, sao mà xúc động. Đây quê hương đất nước ta đây. Bao nhiêu hình ảnh vừa nhớ, vừa quên, nào “Đường vào xóm nhỏ”, “Giếng nước đầu làng” nào “Chiều cô thôn” “Nắng chia nửa bãi”, cho đến “Rừng xanh lau bạc”, “Đất nước”, “Rạt Rào”, “ Bờ Hương Giang”, “Miền Nam vị ngọt”. Lần giở cuốn “Việt Nam Quê Hương Yêu Dấu”…như lần giở từng trang kỷ niệm. Hai ông Cao Đàm và Cao Lĩnh, trong cuộc đời nghệ thuật đã đoạt nhiều danh vị quốc tế (mà tôi nhớ không hết được, nhưng biết là hết sức cao qúy), nhưng tôi nghĩ cái danh vị đầu tiên các ông đáng được hưởng phải là Nghệ Sĩ Việt Nam.


Nhiếp ảnh gia Cao Đàm

Tranh của các ông không lẫn với ai được, thuần túy Việt Nam. Các ông chắc phải yêu cái đất nước đau thương nhưng vô cùng đẹp đẽ này nhiều lắm, nên mới ghi lại được những hình ảnh có sức rung cảm sâu xa như vậy.

Tháng Tư đen 1975, tôi đi cải tạo sau 10 năm trở về- thấy mất nhiều thứ quá. Nhà cửa còn bị tịch thu thì cái tủ sách sao mà tồn tại được. Nhưng đau đớn hơn vẫn là mất bạn bè. Nhìn lại trong thời gian ấy bao nhiêu anh em mình đã mất, trong số đó có Trần Cao Lĩnh. Chả bao giờ gặp lại Trần Cao Lĩnh nữa. Người ta thường bảo “văn tức là người”, nhưng trong trường hợp anh, có lẽ phải xét lại. “Tranh” của anh tài hoa, thông minh tinh nghịch nhưng rất đôn hậu như nét cười tươi tắn của anh, sao anh từ biệt anh em sớm vậy? Anh Cao Đàm còn hơn tuổi anh nhiều chứ!

Ấy vậy mà bây giờ, người tóc bạc phơ, nhưng vẫn “nhất kiếm trấn ải” ở vùng Nam bán cầu này đấy. Xưa nay tôi không được quen biết nhiều những nghệ sĩ nhiếp ảnh, nhưng đối với tôi, Cao Đàm – Cao Lĩnh là song kiếm hợp bích trong làng ảnh Việt Nam. Cao Lĩnh là khóe nhìn thông minh, tươi tắn của một con người hướng ngoại (extrovert) còn Cao Đàm con mắt đăm chiêu, sâu sắc, nhìn vào bên trong, hướng nội ( introvert). Trong cuốn Album chung “Việt Nam Quê Hương Yêu Dấu”, hai cái nhìn một hướng nội, một hướng ngoại đã “chụp” được những hình ảnh rất đáng ghi nhớ về đất nước Việt Nam.

Trên mục này, tôi từng đề cập đến tấm hình bìa báo đặc biệt Chiêu Dương giai phẩm xuân Giáp Tuất của Trần Cao Lĩnh. Tấm hình này theo phong cách một bức tranh tĩnh vật, rất bắt mắt, rất mời gọi người xem. Một không khí Tết Việt Nam tràn ngập với chữ đại tự, hoa đào, cây trái và bộ tách trà song ẩm. Tâm hồn Trần Cao Lĩnh hướng ngoại…anh mở toang cửa sổ tâm hồn mời gọi người xem… xin cứ tự nhiên ra vô thong thả. Còn Cao Đàm, ngược lại, cái nhìn của anh kén chọn, trầm tư, sâu sắc; chụp hình mà anh như muốn ghi lại những gì vô ảnh, vô hình. Hãy ngắm kỹ bức hình Đế (tiếng Anh dịch: Drunk). Say là một trạng thái tâm hồn, làm sao mà chụp đuợc. Nhưng cứ nhìn kỹ chân dung ông già thiểu số trong bức này đi. Nhìn vào mắt ông ta. Say lắm, xỉn lắm! Nhìn mà như không thấy gì, những tia máu trong mắt hằn lên. Nét mặt đờ đẫn. Càng nhìn càng thấy say kịch liệt. Hay là bức hình “ Past and Present” (Quá khứ và hiện tại). Đây chỉ là một gốc tre già và một chồi măng. Rất đơn giản, rất tự nhiên, không có bố cục, không có gia công một chút nào. Loại tranh này, theo anh Cao Đàm không gọi là “tĩnh vật” được, mặc dù nó đơn sơ gần gũi. Cái gì ở ngoài trời, còn đang sống, đang tươi ngoay- ngoảy, đang chuyển động (dù là đang chuyển động âm thầm) thì phải gọi là tranh phong cảnh (paysage) dù rằng rất gần với tĩnh vật (loại tranh chụp trong nhà). Quá khứ: gốc tre già cốc -đế rễ xoắn xuýt từng chùm, bên cạnh hiện tại: một chồi măng mới mọc, vừa nhú lên từ lòng đất – những cái lông măng như còn đọng hạt sương mai.

Tuy vậy, ông già Cao Đàm này không có nghiêm nghị, khô khan đâu. Ông già này “hóm” lắm, “nghịch ngầm” lắm. Có một bức tranh ghi hình một dãy cau chĩa thẳng lên trời, có một thằng nhỏ đang trèo nhún nhẩy. Đây là bức “ Mày trèo cây cau”. Bức hình tươi vui, “ca dao” một cách kỳ lạ. Hình như đâu đây có tiếng hát” Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà”. Nhưng mà từ mấy chục năm nay, tôi thú nhất bức tranh “ Lá trầu trao duyên” của Cao Đàm. Chỉ là hai chiếc lá trầu tơ, phồng căng đang khoe mình dưới nắng. Lá trầu làm nghĩ tới cưới xin, đến đôi lứa, đến động phòng hoa chúc. Lá trầu trao duyên. Lá trầu đang sắp sửa hiến dâng, với tất cả vẻ say nồng của nó…

Ngày xuân con én đưa thoi… Chúng tôi cùng vài người bạn tới thăm anh Cao Đàm. Tác giả được dịp bàn về nghệ thuật, hình như không biết mệt mỏi, trình bày hết bức này đến bức kia, cuốn này sang cuốn khác. Bỗng nghe anh Cao Đàm nói với chị Cao Đàm ( một người 80 tuổi và một người trên 70 tuổi) : “ Mình ơi, lấy hộ cho mình cuốn sách…). Hai ông bà vẫn cứ ríu- rít như đôi chim bồ câu già. Tôi chợt nhớ đến chữ “mình” trong ca dao và trong đời sống Việt Nam:

Mình về ta chẳng cho về,
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ.
Câu thơ ba chữ rành rành,
Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Tình là ba.
Chữ Trung là để phần cha,
Chữ Hiếu thờ mẹ, đôi ta…

Phan Lạc Phúc

(1995)

_________-

Thưa chị Nguyễn Cao Đàm,

Chiều thứ sáu tuần qua ( 8 tháng 6/ 2001) tôi tới để chào anh Nguyễn Cao Đàm lần cuối. Như vậy là anh Đàm đã theo anh Lĩnh về thế giới bên kia – hai anh lại “ song kiếm hợp bích” ở dưới ấy.

“ Mình về ta chẳng cho về- Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ…” bây giờ không ai “nắm vạt áo” anh Đàm mà đề thơ được nữa.

Nhưng thưa chị Nguyễn Cao Đàm, “tranh” của anh còn ở lại hoài trên cõi đời này, và cái ríu rít “ mình mình – ta ta” của anh chị cũng còn vang vọng trong tâm hồn chúng tôi mãi mãi.

Phan Lạc Phúc.
(2001)

…………………………………………………………………………….

Nguyễn Cao Kỳ Duyên thành ‘đại gia’ vào ngày 20 tháng Năm
Nguồn:nguoiviet.com-Tuesday, May 17, 2016 5:30:59 PM

Nhất Anh/Người Việt

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Bộ phim hình sự và hành động của đạo diễn Lê Văn Kiệt “Nữ Đại Gia” sẽ chính thức ra mắt khán giả ở Việt Nam vào ngày 20 Tháng Năm, năm 2016 tại Sài Gòn sau gần hai tháng dời lịch chiếu vì không được Cục Điện Ảnh Việt Nam duyệt. Đặc biệt, đây là bộ phim đầu tiên của MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên, một nghệ sĩ nổi tiếng ở hải ngoại.

Poster chính thức của phim “Nữ Đại Gia”. (Hình: đạo diễn cung cấp)

“Nữ Đại Gia” là câu chuyện xoay quanh một phụ nữ quyền lực, Kim Anh, do MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên đóng, đối đầu với xã hội đen để cứu lấy con gái mình (diễn viên Trương Quỳnh Anh).

“Phim nói về sự mâu thuẫn trong lương tâm để giữ lòng tự trọng của con người. Nó xuyên suốt trong cuộc sống của những con người luôn tìm kiếm thành công và quyền lực mà ta có thể thấy một sự đối lập giữa những con người tôn trọng phẩm cách cao quý và địa vị xã hội cùng với những giá trị trong cuộc sống,” trích trong thông cáo báo chí của bộ phim.

Đây là bộ phim điện ảnh đầu tiên mà MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên đóng. Nhiều khán giả nghi ngờ rằng liệu phần “lấn sân” của Kỳ Duyên có quá liều lĩnh hay không khi đây là lần đầu tiên cô tham gia nghệ thuật thứ bảy và đóng vai chính.

Nói với nhật báo Người Việt, đạo diễn Lê Văn Kiệt cho biết, việc chọn Nguyễn Cao Kỳ Duyên là có lý do.

“Chúng tôi mất rất nhiều thời gian để thử vai và cuối cùng, người hợp vai nhất chính là chị Kỳ Duyên. Nhân vật Kim Anh là người phụ nữ mạnh mẽ, quyết đoán, bản lĩnh và có đầu óc kinh doanh và chị Kỳ Duyên thể hiện được bản lĩnh đó,” đạo diễn “Nữ Đại Gia” nói. “Nói chị Kỳ Duyên là gương mặt mới thì không đúng vì chị đã có kinh nghiệm ở ngành giải trí bao lâu năm nay, mang hình ảnh quốc tế và được rất nhiều khán giả nhận ra. Ngoài ra, nhiều người nói có quá mạo hiểm không thì mời một người chưa bao giờ diễn xuất lại đi đóng vai chính, nhưng tôi lại nghĩ rằng, với người mới chưa có kinh nghiệm, thì người đó sẽ cảm nhận được vai diễn và khả năng thích ứng nhanh hơn rất nhiều.”

Khi được hỏi vì lý do nào mà bộ phim sắp ngày ra rạp vào Tháng Tư vừa qua lại bị Cục Điện Ảnh Việt Nam cấm chiếu vì không qua được phần kiểm duyệt và cấp giấy phép, đạo diễn Lê Văn Kiệt cho biết, bộ phim đã hoàn tất phần chỉnh sửa để có thể được chiếu vào tháng Năm tới đây.

Đạo diễn Lê Văn Kiệt (trái) và MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên (phải) trên phim trường. (Hình: đạo diễn cung cấp)

“Việc Cục Điện Ảnh Việt Nam kiểm duyệt không cho ra rạp là việc bình thường vì kiểm duyệt phim ở mỗi quốc gia là mỗi khác nhau. Điều chúng tôi làm là phải chỉnh sửa sao cho có thể được ra rạp. Điều này ảnh hưởng rất lớn, nhất là ở phần kỹ thuật, vì phải cắn xén làm sao vẫn không làm thay đổi nội dung,” đạo diễn Kiệt chia sẻ.

Mặc dù ở Việt Nam việc kiểm duyệt là điều gây khó khăn rất nhiều cho các nhà làm phim, đặc biệt là ảnh hưởng đến sáng tạo của họ, nhưng đối với đạo diễn Lê Văn Kiệt, đây là thị trường đang phát triển mạnh mẽ, và cũng là nơi để anh có thể kể câu chuyện của riêng mình.

“Tôi làm phim là để kể câu chuyện mà mình muốn kể, đối với tôi, bộ phim làm ra không vì doanh thu, mà bạn thành công khi chuyển tải được một câu chuyện ý nghĩa và chạm tới trái tim của khán giả, đó mới là điều quan trọng,” anh Kiệt bày tỏ. “Hy vọng qua bộ phim này, khán giả có thể cảm nhận được thông điệp mà bộ phim gửi gắm, đây là câu chuyện của người Việt Nam, về các vấn đề danh vọng, tiền bạc và quyền lực, những điều xảy ra bình thường trong cuộc sống.”

Bộ phim “Nữ Đại Gia” do Lê Văn Kiệt biên kịch và đạo diễn, với nhà sản xuất Lê Trọng Dần và đạo diễn hình ảnh là Kevin Phạm. Trước đây, đạo diễn Lê Văn Kiệt từng được biết đến với bộ phim “Ngôi Nhà Trong Hẻm” và “Dịu Dàng”. Trong đó, bộ phim “Bụi Đời” của anh từng được chọn là bộ phim kết thúc Đại Hội Điện Ảnh Việt Nam Quốc Tế năm 2007.

…………………………………………………………………………………….

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics