1.Báo TQ:Họ Dương gọi VN'đứa con hoang đàng hãy trở về'-2.VN lún sâu vào bãi lầy do TQ tạo ra-3.Bỏ võ khí cấm vận ..

Báo TQ: Họ Dương gọi Việt Nam ‘đứa con hoang đàng hãy trở về’
Nguồn:RFA -Việt-Long- theo Shannon Tirzzi- The Diplomat, June 20, 2014

dua con.gif1-1

Thủ tướng Việt Nam thảo luận với Ủy Viên QVV Trung Quốc Dương Khiết-Trì
RFA photo

Không thấy triển vọng

Các cơ quan truyền thông ngoại quốc (kể cả The Diplomat) không thấy nhiều hy vọng về một sự khai thông cho mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong chuyến đi của Ủy viên Quốc Vụ Viện Dương Khiết-Trì sang Hà Nội trong tuần này.

Báo New York Times viết :”Không giảm căng thẳng giữa Việt Nam vá Trung Quốc”. BBC nhấn mạnh “Bế tắc trong đối thoại Trung Quốc-Việt Nam” và đề tựa của Reuters viết “Trung Quốc quở trách Việt Nam thổi phồng cuộc tranh cãi về giàn khoan ở biển Hoa Nam”

Truyền thông Trung Quốc có những phán đoán khác hẳn, nhận định lạc quan hơn nhiều.
Báo chí Trung Quốc: khai thông, thỏa thuận

Tân Hoa, ấn bản Anh ngữ, chạy đề tựa: “Trung Quốc, Việt Nam thỏa thuận giải quyết thích hợp những vấn đề song phương nhạy cảm”. Rồi thì “Bắc Kinh, Hà Nội cam kết có hành động giải quyết va chạm”, tờ Trung Quốc nhật báo nhấn mạnh. Một đoạn video của CCTV (Truyền hình trung ương Trung Quốc) về chuyến đi của ông Dương chú trọng lời tuyên bố của ông nói rằng dù mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam có xấu hơn hiện nay rất nhiều, hai bên cũng đều phải nghĩ đến môt đường lối nhanh chóng giải quyết vấn đề.

Căn cứ vào bài vở của truyền thông Trung Quốc, có vẻ như những cuộc hội họp của Dương Khiết Trì với các nhà lãnh đạo Việt Nam là một bước tiến chính yếu để giải quyết cuộc khủng hoảng vì giàn khoan.

Điều đó không nói lên rằng Trung Quốc sẵn lòng hòa giải. Ngược lại, mỗi bài báo đều chứa đựng điều xác quyết thông thường của Trung Quốc rằng giàn khoan là việc riêng của Trung Quốc, và Việt Nam nên ngưng lại sự sách nhiễu bất hợp pháp đối với sự vận hành giàn khoan.
Không nói đến Việt Nam đối kháng

hoi dam.jpg1

Ủy viên Dương Khiết-Trì và Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh – Courtesy of asahi.com

Thay vào đó (sự hòa giải của Trung Quốc), báo chí Trung Quốc ngụ ý rằng Hà Nội đã thay đổi lập trường. Không một bài nào loan báo, như truyền thông Việt Nam và phương Tây loan tin, về việc Việt Nam tiếp tục kiên quyết đòi Trung Quốc dỡ bỏ giàn khoan. Những bài vở của Tân Hoa nhấn mạnh rằng Việt Nam và Trung Quốc đã thỏa thuận “giải quyết những vấn đề song phương một cách thích hợp”, không quốc tế hóa cuộc tranh chấp biển Hoa Nam (LND:Việt Nam gọi là biển Đông), và giữ cho tình trạng căng thẳng trên biển không gây trở ngại cho những mối quan hệ song phương rộng lớn hơn.

Tất nhiên, nếu Việt Nam thực sự thỏa thuận “giải quyết thích hợp các vấn đề song phương” theo như định nghĩa của Trung Quốc, thì cuộc khủng hoảng giàn khoan hẳn cũng chấm dứt thực sự. Thay váo đó, Hà Nội có ý kiến rất khác biệt về những gì tạo nên “cách giải quyết thích hợp”.

Theo cách diễn dịch của Việt Nam, Trung Quốc chính là phía xử sự “không thích hợp” khi xâm phạm chủ quyền lãnh hải của Việt Nam.
Đồng thanh giành lẽ phài

Bằng cách bỏ qua không đề cập tới cách diễn dịch nước đôi trong những bài phóng sự của họ, ngành truyền thông Trung Quốc tự đặt mình vào vị trí hô hoán sự phạm luật, sự “chơi xấu”, khi Việt Nam tiếp tục phản đối cái giàn khoan.

Truyền thông Trung Quốc cũng mô tả chuyến đi của họ Dương không những là một thắng lợi ngoại giao, mà còn là một thắng lợi tinh thần. Tân Hoa nhấn mạnh, rằng chuyến đi của họ Dương sang Hà Nội tự nó chứng tỏ rằng Trung Quốc chủ động tìm cách giải quyết vấn đề. Chuyến đi của họ Dương, theo Tân Hoa, là một biểu hiện cho “sự chân thành của Trung Quốc trong việc muốn giải quyết các vấn đề bằng đối thoại và (biểu hiện cho) tính đại lượng của siêu cường (Trung Hoa)”. Truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV nói họ Dương đã đi để giúp “sớm đưa mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam vào đường lối thích hợp”

Giông điệu của những bài báo này tô vẽ họ Dương như một người thầy kiên nhẫn đến để xử sự với một học trò cứng đầu cứng cổ. Thái độ này hiển hiện rõ ràng nhất trong cơ quan truyền thông theo chủ nghĩa dân tộc mang tên Hoàn Cầu (viết bằng Hoa ngữ, đối tác của Global Times). Hoàn Cầu mô tả chuyến thăm của họ Dương như một món quà của Trung Quốc, nhằm tặng cho Việt Nam một cơ hội nữa để “tự kiềm chế trước khi quá muộn”. Trách nhiệm của họ Dương tại Hà Nội là để “minh định giới hạn cuối cùng cũng như những điều thuận và bất thuận” của tình hình.
Trịch thượng hết mức

Hoàn Cầu viết: Nói chuyện với Việt Nam, Trung Quốc “thúc giục ‘đứa con hoang đàng hãy trở về nhà’.” Dựa trên sự diễn dịch đó, có vẻ như họ Dương đến Hà Nội không phải để đối thoại thực sự, mà chỉ để giảng bài.

dua con 2

Sự diễn tả của truyền thông Trung Quốc, dù ra vẻ tích cực, thực ra đã được xếp đặt để chuẩn bị đầy đủ cho Bắc Kinh trong trường hợp những mối căng thẳng tiếp tục nung nấu. Mỗi bài đều nhấn mạnh vào sự sách nhiễu của Việt Nam đối với giàn khoan của Trung Quốc, và sự kiên nhẫn cùng tính cách cao thượng, khoan dung của Trung Quốc trong cách xử sự trước những sự khiêu khích ấy, bằng cách phái họ Dương sang Việt Nam để đàm phán.

Những bài báo đó cũng nhấn mạnh sự đồng thuận đạt được trong các hội nghị; những từ ngữ này sẽ được dùng chống lại Hà Nội nếu cuộc khủng hoảng tiếp diễn theo lối hiện nay. Bài vở phóng sự của truyền thông Trung Quốc gửi đi một thông điệp mạnh mẽ rằng nay tất cả tùy thuộc vào Việt Nam để đáp ứng một cách đúng đắn với những đề nghị của Trung quốc bằng cách chấm dứt sự quấy rối và phản kháng đối với giàn khoan của Trung Quốc.

Dựa vào đó, bài của Hoàn Cầu chấm dứt bằng một lời cảnh bào rằng cộng đồng quốc tế sẽ trông chừng xem Việt Nam có làm đúng lời hay không, sau cuộc họp với họ Dương

……………………………………………
Việt Nam lún sâu vào bãi lầy do Trung Quốc tạo ra
Nguồn:Nam Nguyên, phóng viên RFA – 2014-06-20

cua khau 2
TBT Nguyễn Phú Trọng gặp Ủy Viên Quốc Vụ TQ Dương Khiết Trì tại Hà Nội chiều 18/6/2014.
AFP

Quan điểm khác biệt

Tình hình biển Đông càng nóng hơn sau các cuộc gặp gỡ của ông Dương Khiết Trì Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh. Báo chí trong ngoài nước cho là hai bên giữ nguyên quan điểm khác biệt trong vụ giàn khoan, hay nói cách khác đó là cuộc đối thoại giữa hai người điếc.

TS Phạm Chí Dũng, nhà bình luận độc lập từ Saigon nhận định:

“Tôi cho là đó là cuộc nói chuyện giữa hai người khiếm thính thì đúng hơn, họ nói họ nghe nhưng họ không hiểu nhau và có vẻ như họ cố tình không hiểu nhau. Nếu gọi Việt Nam là kẻ khiếm thính thì Trung Quốc còn có thể đóng trai trò một người câm nữa. Tại vì cho tới ngày hôm nay thì thêm một giàn khoan nữa đã được kéo vào biển Đông Việt Nam đó là giàn khoan Nam Hải 9 và tôi cho là hiện nay ở biển Đông Việt Nam có tới ba giàn khoan. Thứ nhất là Hải Dương 981 thứ hai là Nam Hải 9 và còn một giàn khoan sống đi bằng hai chân mang tên là Dương Khiết Trì tại Hà Nội nữa.”

Theo báo chí tường thuật, hai ông Phạm Bình Minh và Dương Khiết Trì gọi nhau là đồng chí và luôn cùng sử dụng nhóm từ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đảng luôn luôn đứng đầu khi hai ông nêu các quan điểm về vấn đề biển Đông. Có vẻ ý thức hệ Cộng sản vẫn chi phối quan hệ Việt Trung rất sâu đậm. Nhà giáo Đỗ Việt Khoa ở Hà Nội nhận xét:

“Trong quan hệ quốc tế bình thường giữa hai quốc gia, khi xưng hô, người ta sẽ gọi là ông, là ngài, là tôi chứ không thể có chuyện cho đến thời điểm này, cứ gọi nhau là đồng chí như thể ý thức hệ lệ thuộc hay mình là đàn em phải nịnh người ta không bằng. Nó cho thấy kiểu xưng hô khiếp nhược.”

Từng là Đảng viên Đảng Cộng sản cho tới khi xin ra khỏi Đảng hồi gần đây, TS Phạm Chí Dũng có cách nhìn riêng về sự ràng buộc ý thức hệ Việt Nam-Trung Quốc. Theo lời ông, đó là một sự bế tắc cả về mặt xưng hô lẫn từ vựng cũng như văn hóa giữa hai quốc gia. TS Phạm Chí Dũng nhận định:

hoi dam.jpg1
Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh (phải) tiếp Ủy viên Quốc vụ viện TQ Dương Khiết Trì tại nhà khách chính phủ ở Hà Nội ngày 18 tháng 6 năm 2014. AFP PHOTO / POOL / LƯƠNG THÁI LINH.

“Nếu tính từ năm 1950 trở lại đây, có thể nói hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc đã từng bế tắc nhiều lần và cứ mỗi lần bế tắc như vậy thì họ lại thay đổi cách xưng hô, đặc biệt từ đồng chí hay là 4 tốt 16 chữ vàng hay là tất cả những từ tương tự như vậy, đều đại diện cho một sự bất nhất mà họ có thể dùng bất cứ lúc nào, nhưng đồng thời cũng phản ánh cho sự trả giá trong nội bộ của họ.

Tôi muốn nói đây là nội bộ giữa Hà Nội và Bắc Kinh vì đồng chí với nhau nhưng không bao giờ là tốt cả. Và khi người ta dùng từ đồng chí thì có thể hiểu người ta đang phê phán nhau, như là truyền thống ở trong các cuộc họp chi bộ. Còn khi người dùng từ anh em thì có thể hiểu là còn có một chút tinh thần môi răng. Nhưng khi ông Phạm Bình Minh dùng từ đồng chí với người Trung Quốc, thì tôi nghĩ là không báo trước một điềm lành gì cả mà điều đó chắc chắn là sẽ dẫn tới những hiểm họa khác và sẽ kéo dài hơn trong thời gian tới. Tóm lại cuộc gặp này không mang lại một kết quả gì khả quan, tốt đẹp hơn mà chỉ làm cho Bộ Chính trị Hà Nội lún sâu hơn vào bãi lầy do Trung Quốc tạo ra.”
Người dân thất vọng?

Trong lúc ông Dương Khiết Trì đang có mặt tại Hà Nội, một tiếng nói đơn độc cất lên từ Quốc hội Việt Nam đề nghị ra nghị quyết về biển Đông. Theo VnExpress và VnEconomy bản tin trên mạng ngày 19/6/2014, Đại biểu TP.HCM Luật sư Trương Trọng Nghĩa nói rằng, nếu lần này Quốc hội không có tuyên bố chính thức hay nghị quyết về biển Đông thì chắc chắn nhân dân rất thất vọng. Được biết Quốc hội Việt Nam chỉ còn 3 ngày làm việc trước khi bế mạc kỳ họp thứ 7 nhưng hoàn toàn không có mục nào dành cho biển Đông.

Đối với sự kiện vừa nêu TS Phạm Chí Dũng nhận định rằng, Quốc hội Việt Nam không có vai trò trong các quyết định quan trọng của quốc gia. Quốc hội được coi là sân sau của Bộ Chính trị và luôn luôn chờ chỉ đạo của Bộ Chính trị. Năm 2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói Cương lĩnh Đảng cao hơn Hiến Pháp! TS Phạm Chí Dũng phát biểu:

“Tôi hoàn toàn không ngạc nhiên về tỷ lệ 1/499 Đại biểu Quốc hội đưa ra vấn đề nghị quyết biển Đông vào thời điểm này. Khi mà cuối năm 2013 chỉ có hai người bỏ phiếu không đồng thuận với bản Hiến pháp được sửa đổi. Chúng ta có thấy được là một bản Hiến pháp lạc hậu phản ánh ngược chiều với quyền lợi của nhân dân lại được thông qua với tỷ lệ cao đến áp đảo như thế. Do vậy hoàn toàn không ngạc nhiên khi chỉ có mình ông Trương Trọng Nghĩa đưa ra vấn đề này.”

Khi trả lời báo chí vào sáng 19/6 bên hành lang Quốc hội, theo VnExpress LS Trương Trọng Nghĩa nói rằng, qua Nghị quyết biển Đông Quốc hội phải vạch rõ âm mưu độc chiếm biển Đông, kiểm soát biển Đông của Trung Quốc. Vấn đề không chỉ là một cái giàn khoan, không chỉ là dầu khí. Quốc hội Việt Nam cần tuyên bố với nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới lập trường chính nghĩa của Việt Nam. Lên án hành vi sai trái của Trung Quốc, âm mưu của Bắc Kinh mà LS Trương Trọng Nghĩa mô tả là: “vừa đấm vừa xoa, vừa đánh vừa đàm, vừa ăn cướp vừa la làng.”

bai lay 3.jpg1
Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng (P) tiếp Ủy viên Quốc vụ Viện Trung Quốc Dương Khiết Trì tại Hà Nội hôm 18/6/2014

Vẫn theo LS Trương Trọng Nghĩa, Quốc hội cần lên án hành vi của Trung Quốc đã đi ngược lại tất cả những gì nước này cam kết và thỏa thuận với Việt Nam cũng như các nước ASEAN. Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa và một phần Trường Sa của Việt Nam bằng vũ lực và kéo giàn khoan phi pháp vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.

Trao đổi với chúng tôi, Nhà giáo Đỗ Việt Khoa từ Hà Nội nhận định là Trung Quốc vừa ăn cướp vừa la làng, nhưng tuyên truyền có hệ thống nên ngay cả người dân Trung Quốc cũng tin rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của họ. Ngược lại ở Việt Nam những năm qua rất nhiều blogger, nhà báo bị bắt giam, truy tố hay trù dập vì dám nói lên sự thật, Trung Quốc xảo trá cướp đất, cướp biển của Việt Nam. Theo nhà giáo Đỗ Việt Khoa, trước năm 1975 miền Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sai lầm khi có một số văn kiện công nhận chủ quyền Trung Quốc về Hoàng Sa Trường Sa, lúc ấy miền Bắc cho là đất nằm trong tay địch thì Trung Quốc chiếm cũng tốt. Nhà giáo Đỗ Việt Khoa tiếp lời:

“Chúng tôi thế hệ bây giờ cho rằng miền Bắc miền Nam anh em một nhà đánh nhau để cho hàng xóm nó cướp đất. Miền Bắc im lặng thậm chí cổ vũ cho thằng hàng xóm ăn cướp đó thì anh có tội với dân tộc. Nói thẳng ra những người ký văn bản đó là có tội với quốc gia dân tộc, lịch sử sẽ phán xét họ. Tuy nhiên xét về tài liệu cũng như các lý luận khác thì chúng ta có thể khẳng định rằng, từ hàng nghìn năm nay, các văn bản của các triều đại, các chính quyền, chưa bao giờ Hoàng Sa Trường Sa biển Đông lại thuộc về Trung Quốc cả. Họ luôn khẳng định đó là của Việt Nam.”

Sau hội nghị Việt Trung 18-19/6 tại Hà Nội, tất cả báo chí do Nhà nước quản lý đều chạy tít lớn dựa theo phát biểu của các nhà lãnh đạo Việt Nam: “Lập trường của Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa: Không thay đổi và không thể thay đổi.” Báo chí hiện nay được phép đưa nhiều tin bài với lập luận mạnh mẽ, như phải thoát lệ thuộc Trung Quốc, phản kháng Trung Quốc xâm chiếm biển đảo. Đây là sự kiện đáng ngạc nhiên vì nhiều blogger hiện vẫn đang ngồi tù vì những bài viết trước đây với các nội dung tương tự. Phải chăng chính quyền Việt Nam cởi mở hơn với báo chí, trong khi Đảng và Chính phủ lại vẫn mong muốn cầu hòa với Trung Quốc. TS Phạm Chí Dũng nhận định:

“Tôi cho là không hẳn là vũ khí mà là công cụ hỗ trợ được nhà nước Việt Nam đang dùng đến. Thứ nhất vì tinh thần không thể chủ chiến của họ và thứ hai như người ta nói, không cẩn thận thì Việt Nam sẽ đi bằng đầu gối. Đó là chính sách ngoại giao đầu gối mà một số nước phương tây đã phải dùng để phê phán Việt Nam cho một hành động mà họ gọi là khó có thể nhu nhược hơn.”

Biển Đông sẽ đi về đâu sau cuộc hội đàm Việt Trung không mang lại kết quả. Ngay trong khi Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì còn đang có mặt ở Hà Nội thì Trung Quốc đã đẩy mạnh hơn điều gọi là phép thử giàn khoan. Trung Quốc đã tăng cường một giàn khoan mới trên vùng biển gần Việt Nam và có khả năng được đưa vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra Bắc Kinh còn loan báo cấp quyền sử dụng đất cho người Hoa tại quần đảo Hoàng Sa và tất cả các đảo bãi đá ở Trường Sa mà Trung Quốc lấn chiếm bằng vũ lực của Việt Nam. Những dự báo về vấn đề này hoàn toàn không sáng sủa cho chính quyền và người dân Việt Nam.

………………………………………………

Người được đề cử Đại sứ Mỹ muốn bỏ cấm vận vũ khí Việt Nam

Nguồn:Trọng Nghĩa– RFI

bo cam van
Người được đề cử tân đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, Ted Osius (trái).
Ảnh Bộ Ngoại giao Mỹ

Nhân vật được đề cử làm tân đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam, vào hôm qua 17/06/2014, đã cho rằng Washington nên gỡ bỏ lệnh cấm bán và chuyển giao các loại vũ khí sát thương cho Việt Nam. Phát biểu nhân cuộc điều trần tại Thượng viện Mỹ, ông Ted Osius, một nhà ngoại giao kỳ cựu, thẩm định rằng « bây giờ là lúc » mà chính quyền Mỹ phải xem xét khả năng bãi bỏ lệnh cấm nói trên theo một « tiến độ thích hợp ».

Theo hãng tin Mỹ AP, trước các Thượng nghị sĩ, người được đề cử làm Đại sứ Mỹ tại Việt Nam trong thời gian tới đây cho rằng Việt Nam hiện đã đạt tiến bộ trong ba hoặc bốn lãnh vực trên tổng số 9 địa hạt mà Hoa Kỳ đòi Việt Nam phải cải thiện trước khi được giải tỏa cấm vận vũ khí. Ông Osius đã nhắc đến các lĩnh vực như quyền của người lao động, chính sách đối với người khuyết tật và việc tạo thêm điều kiện cho hoạt động của xã hội dân sự và các giáo hội.

Trả lời câu hỏi của Thượng nghị sĩ John McCain, một người ủng hộ việc gỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam, ông Osius xác định : « Có lẽ đã đến lúc bắt đầu thăm dò khả năng giải tỏa lệnh cấm », nhưng theo tiến độ phù hợp với cả Ủy ban đối ngoại Thượng viện Mỹ lẫn Việt Nam.

Theo hãng AP, việc Hoa Kỳ giải tỏa cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam có thể sẽ khiến Trung Quốc tức tối trong bối cảnh họ đang dùng sức mạnh lấn lướt Việt Nam ngoài Biển Đông, và coi việc Mỹ tăng cường hiện diện quân sự ở châu Á là nhằm kiềm chế đà vươn lên của Trung Quốc.

Yếu tố Trung Quốc cũng đã được ông Osius nhắc đến trong cuộc điều trần khi ông nêu bật hai lý do khiến ông cho rằng « đã đến lúc » gỡ bỏ cấm vận : (1) Mong muốn của Việt Nam tham gia khối tự do thương mại Đối tác Xuyên Thái Bình Dương do Mỹ đề xướng ; (2) « tình thế chiến lược » do Trung Quốc gây ra mà Việt Nam đang phải đối phó.

Trong thời gian gần đây, sau khi Trung Quốc đưa giàn khoan vào sâu trong vùng thềm lục địa của Việt Nam và dùng đội tàu hộ vệ hùng hậu xua đuổi các tàu công vụ và tàu cá của Việt Nam, nhiều lãnh đạo Việt Nam đã nhắc lại yêu cầu chính quyền Obama bãi bỏ cấm vận vũ khí, xem đấy là một bước quan trọng cho việc bình thường hóa hoàn toàn quan hệ.

Năm 1995, Mỹ và Việt Nam đã bình thường hóa bang giao, nhưng lãnh vực vũ khí và công nghệ quân sự vẫn được coi là nhậy cảm. Vào năm 2007, chính phủ Mỹ đã cho phép cung cấp một số dịch vụ và thiết bị phòng thủ không sát thương cho Việt Nam, nhưng lệnh cấm bán và chuyển nhượng các loại vũ khí sát thương vẫn được duy trì.

Bộ Ngoại giao Mỹ hôm 14-5 xác nhận tổng thống Obama đã chính thức đề cử ông Osius làm tân Đại sứ Mỹ ở Việt Nam. Ông là một nhà ngoại giao kỳ cựu từng phục vụ tại Indonesia, Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan và Philippines. Theo thủ tục hiện hành tại Mỹ, quyết định của Tổng thống bổ nhiệm đại sứ phải được Ủy ban Đối ngoại, rồi toàn bộ Thượng viện phê chuẩn.
………………………………………………………….

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics