CHÚC MỪNG XUÂN MỚI, GIÁP NGỌ 2014
Nhã Nhạc thân ái chúc gia đình, bằng hữu, các em, quý độc giả năm mới Giáp Ngọ 2014 An Bình, Thịnh Vượng, Hạnh Phúc
…………………………………………
THƠ XUÂN
Xuân Cảnh củaTrần Nhân Tông
Trí Bửu
Nguồn:Quỹ khuyến học Ninh Hoa .com
Trần Nhân Tông – Đức Vua, Phật hoàng, Thiền sư, Thi sĩ, có một hồn thơ trong sáng, thanh cao. Hồn thơ Trần Nhân Tông luôn hướng về Chân, Thiện, Mỹ, luôn hướng đến sự hoàn thiện và tự hoàn thiện.
“Xuân Cảnh” (Cảnh xuân) là một bài thơ thất ngôn, tứ tuyệt (7 chữ 4 dòng), chỉ có 28 chữ ngắn gọn, đã diễn tả được một nét đẹp ngoại cảnh, của cuộc sống và sự an nhiên, tự tại của tâm hồn nhà thơ Trần Nhân Tông.
春 景
楊柳 花 深 鳥 語 遲,
畫 堂 簷 影 暮 雲 飛。
客 來 不 問 人 間 事,
共 倚 欄 杆 看 翠 微。
Xuân cảnh
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì,
Hoạ đường thiềm ảnh mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thuý vi.
Gs Nguyễn Huệ Chi dịch :
Cảnh xuân
Chim nhẫn nha kêu, liễu trổ dày,
Thềm hoa chiều rợp bóng mây bay.
Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế,
Cùng tựa lan can nhìn núi mây.
=====
Xuân vãn (Trần Nhân Tông )
Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt, thời kỳ: Trần
Nguồn: thivien.net
春晚
Xuân vãn
Chiều xuân (Người dịch: Đông A)
年少何曾了色空,
一春心在百花中。
如今勘破東皇面,
禪板蒲團看墜紅。
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng.
Thủa trẻ nào hay lẽ sắc không
Mỗi xuân tâm rộn vạn hoa lòng
Đông Hoàng bản mặt nay đà ngộ
Chiếu cọ thiền xem rụng đóa hồng.
–o0o-o0o-o0o–
Bài thơ của Đỗ Phủ
Xuân vọng
Nguồn:Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nhà tranh của Đỗ Phủ, nay nằm ở Tứ Xuyên (Trung Quốc)
Thi phẩm Xuân vọng (chữ Hán: 春望) của nhà thơ Đỗ Phủ (杜甫, 712 – 770) là một trong số nhiều bài thơ hay và nổi tiếng trong nền văn học cổ đại Trung Quốc.
Hoàn cảnh ra đời
Lúc Đỗ Phủ trở về huyện Phụng Tiên (nay là Bồ Thành, tỉnh Thiểm Tây) thăm gia đình cũng là lúc An Lộc Sơn khởi binh[1] ở Phạm Dương (nay là Bắc Kinh) đánh xuống Lạc Dương, Đồng Quan, thẳng đến Trường An. Ông mang vợ con theo đoàn người dân chạy loạn. Đến Khương Thôn, Đổ Phủ để gia quyến ở đó rồi một mình đi về phía bắc đến Linh Vũ, định tìm Túc Tông (Lý Hanh) vừa mới lên ngôi. Nhưng giữa đường, ông bị quân của An Lộc Sơn bắt, đưa về Trường An. Nhân lúc quân nhà Đường và quân nổi dậy đang đánh nhau, Đổ Phủ liều mạng vượt chiến tuyến, trốn khỏi. Dọc đường ông phải trải qua biết bao gian truân khổ ải mới tới được Phượng Tường (thuộc tỉnh Thiểm Tây). Và rồi với hình dạng “chân đi dép gai, mặc áo rách cùi”[2] ông đến bái kiến vua Đường Túc Tông, được phong làm tả thập di (giám quan)…
Trong sách Lịch sử văn học Trung Quốc[3] cho biết từ tháng 11 năm 755 đến tháng 9 năm 757, tức từ khi An Lộc Sơn làm phản cho đến khi quân Đường lấy lại Trường An, quãng đường đầy khổ cực này chưa đầy hai năm mà cơn bão táp lịch sử đã tôi luyện ông thành một nhà thơ vĩ đại của nền văn học cổ đại Trung Quốc. Trong khoảng thời gian trên, ông liên tiếp cho ra đời hàng loạt những bài thơ bất hủ, như: Ai vương tôn, Bi Trần Đào, Ni Thanh Bản, Ai giang đầu, Hỷ đạt hành tại sở tam thủ, Thuật hoài, Khương thôn, Bắc chinh, Bành nha hành và Xuân vọng (757)[4].
Nguyên tác & các bản dịch
Bài thơ Xuân vọng được sáng tác theo thể ngũ ngôn luật.
Giới thiệu thi phẩm này, Trần Trọng Kim viết: Tiền giải nói nước tan; hậu giải nói trong cảnh loạn lạc nhớ nhà, tóc đầu bạc phơ, rụng hết.[5]
Và sách Lịch sử văn học Trung Quốc[6] cũng có đoạn giới thiệu bài Xuân vọng: “Cung đàn nhà thơ Đỗ Phủ vẫn thường gảy là âm điệu thâm trầm ưu quốc đương thời. Thân đói rét mà lòng lại muốn cứu nhân độ thế, sống trong nghèo túng mà không có ý chán đời, đây là điểm khác của ông với nhiều nhà thơ cổ đại Trung Quốc khác. Chính vì yêu nước tha thiết, nên khi nước nhà bị tàn phá thì ông cũng rất đau khổ và thơ ông viết ra cũng đặc biệt xúc động”:
Nguyên tác:
春望
國破山河在,
城春草木深。
感時花濺淚,
恨別鳥驚心。
烽火連三月,
家書抵萬金。
白頭搔更短,
渾欲不勝簪。
Phiên âm Hán – Việt:
Xuân vọng
Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm.
Cảm thì hoa tiễn lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
Phong hoả liên tam nguyệt,
Gia thư để vạn kim.
Bạch đầu tao cánh đoản,
Hồn dục bất thăng trâm.
Bản dịch của Trần Trọng Kim:
Nước phá tan, núi sông còn đó,
Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu.
Cảm thời hoa rỏ dòng châu
Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng.
Ba tháng khói lửa ròng không ngớt,
Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn.
Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun,
Dường như hết thảy, e khôn búi tròn.[5]
Bản dịch của Trương Văn Tú (Lãng Nhai):
Nước mất nhà tan còn sông núi,
Xuân thành cây cỏ mọc thâm u.
Nhìn hoa hoang dại sầu rơi lệ,
Chim kêu hoảng sợ hận biệt ly.
Khói lửa binh đao liền ba tháng,
Thư nhà nhận được đáng vạn ngân.
Tóc bạc như sương càng thưa thớt,
E không đủ búi để cài trâm.
…………………………………………………………
Ngựa trong văn hóa đại chúng
Nguồn:Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Một con ngựa
Danh xưng
Tên gọi: Ngựa, mã, ngọ
Tên khoa học: Equus caballus
Vùng văn hóa ảnh hưởng
Châu Phi (Bắc Phi)
Châu Á
Châu Âu
Châu Mỹ
Ý nghĩa biểu tượng
Chiến tranh, sự trung thành
Thể lực, tốc độ, sự sung mãn
Thành công, tài lộc
Hình tượng con ngựa hiện diện từ sớm trong văn hóa Đông-Tây, con ngựa là một trong những loài vật được con người thuần hóa và sử dụng trong đời sống hàng ngày và loài vật gắn liền với chiến tranh. Hình ảnh con ngựa còn là chủ đề cho các môn nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, thơ văn… Đối với văn hóa phương Tây, ngựa gắn liền với nhiều biểu tượng thần thoại và gắn liền với hình ảnh Nhân Mã trong 12 Cung Hoàng đạo.
Ngựa là một trong 12 con giáp của văn hóa phương Đông (ngọ), cũng nằm trong số lục súc theo quan niệm của văn hóa một số nước. Ngựa là hình tượng đặc trưng cho phương Bắc, là biểu tượng cho sự trung thành và tận tụy đồng thời là biểu tượng cho tài lộc, thành công, hình ảnh con ngựa tung vó hý vang biểu tượng cho sự kiêu hãnh và tự do và thanh khiết[1].
Khái yếu
Ngựa là con vật thông minh, khôn ngoan sống gần người và được con người yêu quý trong đời sống vất vả mà còn kề vai sát cánh cùng con gười xông pha nơi trận mạc. Ngựa đã đi vào văn học dân gian trong lịch sử và văn hoá nghệ thuật. Xuất phát từ chính đặc điểm tự nhiên của loài ngựa mà hình tượng con ngựa luôn hiện diện với vẻ đẹp trong cách nhìn của con người phản ánh qua lăng kính văn hóa. Ngựa có dáng vẻ đẹp đẽ, mạnh mẽ, sung mãn mà thanh nhã, hiền lành, ngựa đó đức tính trung thành với con người, nhiều con ngựa được coi là con vật có tình nghĩa.
Trong thần thoại
Ở Triều Tiên có ngựa Ngựa thần Chollima (Thiên Lý Mã) xuất hiện trong thần thoại châu Á: Giống như loài ngựa trắng có cánh Pegasus của thần thoại Hy Lạp, Chollima trong văn hóa dân gian châu Á cũng sở hữu đôi cánh sải rộng. Bốn con ngựa của Apocalypse trong Thần thoại Kitô giáo: Chúng là biểu tượng của sự chinh phục, chiến tranh, nạn đói và cái chết.
Trong thần thoại Hy Lạp có con ngựa Pegasus trong thần thoại Hy Lạp cổ đại, sau khi giúp đỡ người anh hùng Hy Lạp Bellerophon đánh bại Chimera, Zeus đã biến ngựa Pegasus thành một chòm sao và cho nó một vị trí trên bầu trời. Ngoài ra có điển tích Con ngựa thành Troia. Truyền thuyết Hy Lạp cổ đại có nêu Mười hai kỳ công của Heracles trong đó có hai kỳ công liên quan đến ngựa là thuần phục đàn ngựa cái của Diomedes: Bốn chú ngựa cái của Diomedes gồm: Podagros, Lampon, Xanthos và Deimos. Chúng có sở thích ăn thịt người. Heracles đã khiến 4 con ngựa ăn thịt chính chủ nhân của chúng rồi thuần phục chúng.
Heracles được chỉ thị phải mang về cho Erystheus đàn ngựa cái của Diomedes – vua trị vì xứ Thracia. Những con ngựa ăn thịt các vị khách lữ hành khi họ phạm sai lầm không chịu đón nhận lòng hiếu khách của Diomedes. Thần thoại kể rằng Heracles đã dẹp yên đám ngựa hung bạo này khi cho chúng ăn thịt chính người chủ của chúng, ăn được nữa chừng thì chúng phát hiện đây là chủ của mình và đuổi theo Heracles. Heracles sớm gom chúng lại và lùa chúng lên tàu cho Tiryns. Sau khi đưa chúng về trình diện Eurystheus, Heracles thả chúng đi. Cuối cùng bầy ngựa cũng bị con gái của ác điểu Stymphalus ăn thịt trong 1 lần đi lạc.
Một kỳ công khác là dọn Chuồng ngựa của Augeas. Augeas có một bầy ngựa đông đến nỗi lượng phân chúng thải ra qua bao năm kết thành một lớp dày đặc bao phủ toàn bộ Peloponnesus. Heracles đã rửa sạch các chuồng ngựa của vị vua Augeas chỉ trong một ngày. Thay cho việc dùng xẻng và miếng hốt phân như Eurystheus tưởng tượng, Heracles làm thay đổi dòng chảy của hai con sông chảy qua chuồng ngựa, và công việc được hoàn tất mà không làm bẩn tay chàng.
Thần thoại Hy Lạp còn có hình ảnh về Nhân mã là một sinh vật trong thần thoại Hy Lạp có nửa thân trên của người và toàn bộ phần dưới của ngựa. Trong thần thoại Hy Lạp, nhân mã cùng tồn tại với con người, các anh hùng và các thần nhưng sống tại vùng núi của Thessalía. Theo thần thoại Hy Lạp, một vị vua tên là Ixion dám tán tỉnh Hera, vợ thần Zeus. Thần Zeus tức giận bèn lừa Ixion bằng cách tạo ra một cụm mây giống hình dạng Hera – đây là thần Nephele. Ixion lấy Nephele, sinh ra một quái vật tên là Centaurus. Centaurus cùng với những con ngựa trên vùng núi Thessalía sinh ra dòng giống nhân mã.
Trong thần thoại Bắc Âu còn có con vật Kelpie là quái vật tới từ các con sông và hồ ở Scotland. Nó thường được gọi là ngựa nước (hà mã) bởi hình dáng bên ngoài trong giống một con ngựa bạch. Nhờ vẻ ngoài đẹp rạng rỡ mà Kelpie đánh lừa rất nhiều người, một khi cưỡi lên, nó sẽ đưa nạn nhân tới chỗ nước sâu và ăn thịt. Một dị bản khác của Kelpie là quái vật Glashtyn trên đảo Nykur, Ireland[2]. Ở Phi Luật Tân còn có truyền thuyết về quái vật Tikbalang, là ngựa quỷ trong tín ngưỡng dân gian. Con quỷ này có đầu và chân ngựa, cơ thể người và các chi rất dài. Chúng ẩn trốn trong rừng, đặc biệt rất hay cưỡng hiếp phụ nữ và để họ mang thai ngựa quỷ Tikbalang con[3].
Trong văn hóa Trung Quốc có hình tượng về Bạch Long Mã là một con ngựa trắng có nguồn gốc từ con rồng. Bạch Long Mã (chữ Hán: 白龍馬) hay Tiểu Bạch Long là con của Tây Hải Long Vương (em Đông Hải Long Vương) là đồ đệ thứ tư của Đường Tăng đi thỉnh kinh ở Tây Thiên trong tiểu thuyết Tây du ký của Ngô Thừa Ân. Do có lỗi lầm nên Quan Thế Âm Bồ Tát đã cho phò giá Đường Tăng đễ chuộc lại những lỗi lầm đã gây ra. đã ăn thịt con ngựa mà Đường Tăng cưỡi nên đã bị Ngộ Không tìm đến đòi mạng. Võ công của ông và Ngộ Không là một trời một vực nên ông đã sớm thất bại và rút xuống nước. Sau đó, Quan Âm Bồ Tát đã gọi lên để Tiểu Bạng Long đi theo phò giá Đường Tăng. Khi phò giá Đường Tăng nó là một con ngựa và rất ít khi cùng các sư huynh tham gia chiến đấu với yêu quái.
Trong tín ngưỡng
Trong quan niệm cổ xưa, ngựa là con vật có bản tính mau lẹ, hăng hái, sung mãn, được xếp dưới nguyên lý Dương của tự nhiên, và được coi là biểu trưng cho yếu tố hỏa. một số nơi người ta dùng biểu tượng ngựa để tượng trưng cho Mặt Trời, có nơi, ngựa là vật hiến tế trong tín ngưỡng thờ thần Mặt Trời. Sự mau lẹ của con ngựa cùng với sức mạnh và năng lực có thể đi được chặng đường rất xa của nó khiến cho người ta gán cho nó những tên gọi như Gío Tây, Chân Mau, Tia Chớp, Thiên Lý Mã, Phi Mã… Người Phương Tây quan niệm rằng ngựa có cánh xuất phát từ con ngựa có cánh của thần thoại Hy Lạp. Trên đồ gốm cổ Việt Nam cũng trang trí những hình ngựa có cánh. Những con ngựa này được diễn tả trong tư thế đang bay trong không trung. Như thế, con ngựa trong nghệ thuật gốm Việt Nam cũng hoá thân vào huyền thoại, và ít nhiều nó đã mang màu sắc tôn giáo như con ngựa trong văn hoá Ấn Độ hay văn hoá Trung Quốc.
Cư dân Hồi giáo ở Đông Nam Á cũng có tục thờ ngựa, họ coi ngựa là con vật linh thiêng. Ngựa là một trong những chòm sao của hoàng đạo phương Tây, nó được hình tượng hoá qua người bắn cung Sagittarius xuất hiện ở vòng cung thứ chín dưới dạng hình nhân mã, cũng tương tự như cung ngọ trong mười hai cung của phương Đông. Từ con vật đời thường, với bản tính tốt đẹp mà con người đã gán cho nó, thần thánh nó, huyền thoại nó do đó ngựa đã trở thành hình tượng nghệ thuật, trở thành con vật linh thiêng, hoá thân vào đời sống văn hoá tâm linh[4].
Một dáng hóa thân khác của kỳ lân là con long mã, bao giờ cũng được thể hiện chạy trên sóng nước (lấy từ tích Vua Vũ trị thủy). Người ta thường hiểu rằng: long là rồng, rồng thì bay lên, nghĩa là tung, tượng trưng cho kinh tuyến, thời gian – mã là ngựa, chạy ngang, là hoành, tượng trưng cho vĩ tuyến, không gian. Như vậy long mã tượng trưng cho sự tung hoành của nam nhi, cho thời gian và không gian, long mã chạy là biểu hiện cho vũ trụ vận động, đồng thời tượng trưng cho thánh nhân.
Về nhân tướng, theo quan niệm của Phương Đông thì những người sinh năm con ngựa thường có cá tính phóng khoáng, không căn cơ, có năng lực suy nghĩ độc lập và ít để bụng. Gặp việc gì họ cũng thường bắt tay làm ngay, không chần chừ do dự. Nhưng chính sự nhanh nhẹn đó lại cấu thành nên điểm yếu của họ: nóng vội và thiếu kiên nhẫn[5].
Trong nghệ thuật
Ngựa có nhiều màu như lông màu trắng gọi là ngựa bạch, đen tuyền gọi là ngựa ô, đen pha đỏ tươi là ngựa vang, đen pha đỏ đậm là ngựa hồng, tím đỏ pha đen là ngựa tía, trắng sọc đen là ngựa vằn, ngoài ra còn có ngựa xám, ngựa đỏ (Xích Thố mã)… Về cách đi đứng của con ngựa có nhiều động từ để diễn tả như: đi, bước, rảo, chạy, nhảy, kiệu, phóng, vút, phi (bay), tế, sải, lao, vọt, phốc, phi nước đại, phi nước kiệu, phi rạp mình, ngựa lồng… do đó trong nghệ thuật, Rất nhiều nhà điêu khắc tài hoa, họa sĩ nổi tiếng đã tạc tượng, vẽ tranh ngựa trên sách báo, đền đài, lăng tẩm. Nhiều nơi đều có tượng danh nhân ngồi trên lưng ngựa đặt trang trọng ở các quảng trường, công viên.
Về tranh ngựa có họa sĩ Trung Quốc Từ Bi Hồng chuyên vẽ tranh ngựa và cùng nhiều danh họa phương Tây khác sáng tác nhiều chủ đề về ngựa.
Một họa phẩm xuất sắc của John Collier về Nàng Godiva đang cưỡi trên một con ngựa trắng
Trong chiến tranh
Bài chi tiết: Ngựa trong chiến tranh
Ngựa gắn liền với chiến tranh, với hình ảnh của kỵ binh, các kỵ sĩ, hiệp sĩ Tây Phương và các dũng sĩ, chiến binh của miền thảo nguyên, đại mạc. Rất nhiều đội kỵ binh đã vượt hàng vạn dặm đất đai mệnh mông, núi non hiểm trở, từ nước này sang nước khác như những đội kỵ binh các nước Mông Cổ, Ả rập, du mục lừng danh trong lich sử. Ngựa gắn liền với hình ảnh của các võ tướng, danh tướng, rất nhiều danh tướng từ cổ chí kim, từ đông sang tây khi được tái hiện, biết đến với hình ảnh đang cưỡi ngựa.
Trong các cuộc chiến tranh thời cổ cho đến thời kỳ cận đại, ngày trước, ngựa chiến, giáp trụ, vũ khí là sinh mệnh của võ tướng trên sa trường. Nhiều đơn vị chiến đấu lấy con ngựa làm trung tâm như: Chiến xa (xe ngựa kéo trong chiến tranh), lực lượng kỵ binh, kỵ xạ, thám mã, khoái mã (lực lượng thông tin). Trong các cuộc chiến, việc chiến đấu trên lưng ngựa làm người ta sản sinh ra nhiều thế chiến đấu võ thuật trên lưng ngựa mà một trong thế võ thuật trứ danh là tuyệt chiêu Hồi mã thương của Dương gia tướng.
Trong đời sống
Một con ngựa
Người Trung Quốc gọi ngựa là Mã, Nhật Bản gọi là Uma, tên Phạn của nó là Asu có nghĩa là “mau lẹ”, còn tên Ariăng của nó là Asuba có nghĩa là “chạy”. Ở Trung Quốc, có dòng họ Mã lấy theo tên ngựa, trong đó có nhiều người nổi danh như Mã Viện, Mã Đằng, Mã Siêu, Mã Anh Cửu. Trong ngôn ngữ xuất hiện cụm từ thiên lý mã để chỉ những con ngựa chạy nhanh nghìn dặm, phi ngựa là cưỡi ngựa chạy như bay. Có cả cụm từ lạm phát phi mã để chỉ nạn lạm phát không kiềm chế nổi. Người ta vẫn lấy sức ngựa (mã lực) làm tiêu chuẩn tính sức mạnh của động cơ… trước pháp đình, tội phạm hay cho trước vành móng ngựa.
Ở Việt Nam, đôi khi ngựa còn là biểu tượng cho sức mạnh tình dục của phái nữ, từ lóng “con ngựa”, hay “con đĩ ngựa”, quá ngựa dùng để ám chỉ về những người phụ nữ có sức mạnh tình dục cao, hiếu dục trong khi đó đàn ông thì người ta thường sử dụng hình ảnh con dê. Ngoài ra các loài vật liên quan để ví von về tình dục của con người như con chó (chó cái), con gà, con heo. Trong trò chơi số đề, người chơi đề có rất nhiều cách đoán kết quả, người bình dân thì nằm mơ, thấy con gì đánh vào con đó, trong đó con ngựa ứng với các số 12 – 52 – 92.
Thành ngữ
Trong tục ngữ, ca dao Việt Nam, ngựa cũng là con vật rất quen thuộc được sử dụng nhiều như:
Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ: Nói về tình đoàn kết
Mã đáo thành công: Câu chúc may mắn, thành công
Ngựa non háu đá: Chỉ những người trẻ tuổi thường có tính cách hung hăng, thiếu chín chắn
Cỡi ngựa xem hoa
Ngựa chứng là ngựa hay: nói những người có tài thường có những tật xấu
Ngựa quen đường cũ: Chứng nào tật ấy
Ngưu tầm ngưu mà tầm mã: Chỉ việc những người giống nhau thường tập hợp lại với nhay, tìm đến nhau
Đầu trâu mặt ngựa: Câu này dùng để chỉ những kẻ vô lại, kẻ đại bất lương.
Thẳng như ruột ngựa: Nói về việc không úp mở, thẳng thắn vào đề luôn[6]
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm: Câu này dùng để chỉ việc có nhiều người qua lại
Ngựa lồng cóc cũng lồng: Chỉ sự đua đòi bắt chước một cách lố bịch kệch cỡm.
Da ngựa bọc thây: Câu này thời xưa dùng để nói về một người lính đã ngã xuống trên chiến trường
Đơn thương, độc mã (một ngựa với một cây thương): Chỉ người một mình chống lại khó khăn, không có sự trợ giúp của ai.
Thiên binh vạn mã
Chiêu binh mãi mã
Một mình một ngựa: Chỉ sự đơn độc
Một lời nói ra bốn ngựa khó tìm (Nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy): Câu này có nghĩa là một lời nói vô ý khi ra khỏi miệng rất khó có thể lấy lại được.
Tái ông mất ngựa: Chỉ trong cái rủi có cái may.
Bóng ngựa qua cửa sổ: Bóng ngựa hay bóng câu (Bạch câu có nghĩa là con ngựa non sắc trắng) lướt qua khe cửa là nhằm để chỉ sự trôi nhanh của thời gian.
Có mặt nào dài hơn ngựa
Đường dài mới hay sức ngựa: Câu này ý nói, cùng với thời gian, người ta có thể được những phẩm chất ta một người nào, nhất là khi ở với nhau thường xuyên.
Mặt dài như ngựa
Thay ngựa đổi chủ: Câu ngày dùng để chỉ một người rời bỏ một phe phái để đi theo một phe phái khác.
Thay ngựa giữa dòng: Liên hệ với sự kiện đảo chính truất Ngô Đình Diệm theo chỉ đạo của Mỹ
Ngựa về ngược
Voi dày ngựa xé
Tứ mã phân thây
……………………………………………
Hoa Thủy Tiên
Kim Nguyen to:…,me
Đẹp ngỡ ngàng hoa thủy tiên chơi Tết của người Hà nội xưa
Hoa thủy tiên là thú chơi tao nhã của người Hà Nội xưa, ngày nay thú chơi này đang dần được khôi phục. Người sành chơi hoa thủy tiên thường không bán mà họ trồng hoa để chưng ngày Tết và tặng người thân, bạn bè.
Để có được bát hoa thủy tiên đẹp như ý muốn, người chơi cầu kỳ chọn củ phải đủ 3 năm tuổi, vỏ ngoài mỏng và mầu cánh gián sẫm. Khi gọt phải chọn dao sắc, nhọn, gọt tỉ mỉ từng tí một để tránh vào mầm.
Để có hoa to, đẹp, lá xanh và bền, người chơi chăm hoa như chăm con mọn. Ngày nào cũng phải lau và thay nước để hoa luôn được phát triển trong nước
sạch
Thủy tiên đặc biệt hơn các loại hoa khác vì có thể chơi được 5 thứ: Hoa, mùi thơm, lá, củ và rễ.
Hoa thủy tiên được ví như “chén ngọc đĩa ngà”. Ngoài thì vành tròn trắng muốt, trong có nhụy màu vàng, mùi thơm thoảng mà dịu mát.
Lá thủy tiên có thể uốn thành những hình theo ý muốn hoặc để vươn dài cho bát hoa thêm sinh động.
Củ thủy tiên khi gọt xong, phần vỏ còn bớt lại màu trắng tạo nên những móng rồng rất đẹp, thấp thoáng sau lá.
Thủy tiên đặt trong cốc thủy tinh trong suốt lộ ra bộ rễ trắng muốt, mập mạp tựa như râu bạc phơ của ông lão.
Có khi lại như thác nước đang chảy.
Có khi lại như làn sóng biển đang xô vào bờ.
Thủy tiên rất mềm, người chơi có thể sáng tạo ra những hình thù đặc biệt và rất thú vị.
Nhìn bức ảnh này, có lẽ chúng ta đã hiểu vì sao nhiều người yêu hoa thủy tiên đến vậy!
Mỗi chậu hoa, mỗi hình dáng có những biểu tượng, ý nghĩa riêng mà chỉ những người chơi hoa mới có thể thưởng thức và hiểu sâu sắc!
Người chơi thủy tiên thường hẹn nhau mang hoa đến một địa điểm, vừa thưởng trà vừa ngắm hoa.
Một bát hoa thủy tiên được coi là thành công khi có đủ cả 5 yếu tố về hoa, lá, củ, rễ và mùi thơm. Tuy nhiên, theo những người chơi hoa thì người giỏi phải tính toán sao cho đến giao thừa thì hoa nở được một vài bông. Như vậy mới là người sành chơi và có lộc.
Một người chơi sành thủy tiên bật mí: Để hoa thủy tiên bung ra đúng lúc giao thừa thì chỉ cần dùng mạng nhện bó vào nụ, khi gần giao thừa thì gỡ bỏ ra. Như vậy chỉ một vài tiếng sau là hoa bung ra rất đẹp.
Nếu Tết này, bạn định chưng hoa thủy tiên trong nhà, bạn có thể ra chợ Bưởi (Hà Nội) mua những bát hoa với giá từ 200-400 nghìn đồng.
__._,_.___