***THÁNG 8, NHÌN LẠI ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI-NN***
====
Con gái Đại tướng Cao Văn Viên nói về cuộc chiến Việt Nam
Nguồn:nguoiviet.com-Monday, August 18, 2014
* “Cần phải nói về cuộc chiến theo cái nhìn của người Việt!”
Hà Giang/Người Việt
Bìa trước của tác phẩm The Lotus and the Storm của tác giả Lan Cao, sắp được ra mắt ở Barnes & Noble, ngày 24 tháng Tám. (Hình: Tác giả cung cấp)
LTS: Tác giả Lan Cao là một trong số những người Mỹ gốc Việt viết sách tiếng Anh hiếm hoi được những nhà xuất bản có tiếng của Hoa Kỳ chọn in. Bà tên thật là Cao Thị Phương Lan, ái nữ của cố đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Tác giả Lan Cao vừa được Viking Penguin phát hành cuốn sách thứ hai, có tên ‘The Lotus and the Storm’ (Hoa Sen và Bão Tố) sau khi xuất bản cuốn ‘Monkey Bridge’ (Cầu Khỉ) rất thành công vào năm 1997. Tuy là một nhà văn, Lan Cao lại theo đuổi ngành luật. Tốt nghiệp Yale Law School, và sau một thời gian hành nghề luật tại New York, bà chuyển qua dạy học và hiện nay là giáo sư giảng dạy môn luật kinh tế quốc tế tại Chapman University. Trong một lần đến thăm nhật báo Người Việt, tác giả Lan Cao dành cho ký giả Hà Giang một cuộc phỏng vấn về tác phẩm “The Lotus and the Storm,” trong đó đề cập đến chiến tranh Việt Nam.
***
Hà Giang (NV): Là một nhà văn với những tác phẩm được một nhà xuất bản có tiếng phát hành, một điều không dễ đạt được, nhưng bà lại theo ngành luật. Vậy trong hai con người, nhà văn và giáo sư đại học, đâu là con người thật hơn của tác giả Lan Cao?
Lan Cao: Hai phía, luật pháp và viết văn, đều quan trọng với cuộc sống và tâm hồn của tôi. Đến từ một nước có nhiều chiến tranh, tôi nghĩ đi ngành luật rất là quan trọng, vì luật pháp cho chúng ta giải quyết những xung đột với nhau, có một chỗ, trước tòa, để hai bên có thể nói với nhau một cách hòa bình.
Với việc dạy luật tôi cũng rất thích là bởi vì khi mình vào một lớp dạy luật, mình dậy xong là xong, và mình biết ngay là mình có thành công với học sinh của mình không, có làm cho học sinh hiểu được mình muốn giảng dạy không.
Trái lại, viết sách là một việc rất cô đơn, mình làm một mình mình. Những chuyện mình viết là mình không muốn suy nghĩ trong cái bận rộn trong công việc hàng ngày. Những chuyện tôi muốn viết toàn là những chuyện chiến tranh, mình muốn đối diện với những chuyện màu đen trong tâm hồn của mình, thì mình mới vào thế giới viết sách.
Có thể nói luật pháp với tôi là trên bờ, là mặt nước, còn viết là sự luân lưu của dòng nước, những gì mình suy nghĩ, mình băn khoăn mình muốn viết ra để cho mình hiểu hơn, thì mình viết.
Cuốn sách The Lotus and the Storm (Hoa Sen và Bão Tố) này, tôi phải viết mười năm mới xong, mà trong thời gian viết mình rất bận rộn, cực nhọc, đâu có vui gì, nhưng vẫn phải viết.
NV: Tác phẩm đầu tay của bà, cuốn Monkey Bridge (Cầu Khỉ) sau khi ra đời đã thành công ngay, được nhiều người khen ngợi. Nhưng tại sao phải 17 năm sau, mới có lý do gì, động cơ gì khiến bà viết thêm một cuốn sách nữa?
Lan Cao: Khi viết cuốn ‘Monkey Bridge’ thì tôi đang dạy ở New York, xong rồi chuyển qua dạy ở trường đại học khác ở Virginia. Lúc đó tôi chưa được làm giáo sư dạy toàn thời gian ở trường, nên rất bận rộn tập trung cho việc đạt được “tenure.” Rồi sau đó có con, phải bận rộn với trách nhiệm gia đình, nên tôi không có thì giờ để viết gì nữa.
Năm 2005, chiến tranh Iraq bắt đầu căng thẳng, lúc đó mọi đài truyền hình, mọi tờ báo ở Mỹ đều nói “lại thêm một chiến tranh Việt Nam,” rồi cho là không khéo Mỹ lại sa lầy ở Iraq như đã mắc kẹt ở Việt Nam, và chê người Iraq cũng như từng chê Việt Nam là bê bối, không biết làm gì hết, quân đội Mỹ kéo vào rồi làm thế nào đây.
Việc Mỹ có nên vào cuộc trong chiến tranh Việt Nam không, không phải là điều tôi muốn nói trong cuốn sách, nhưng nếu đã vào rồi, thì phải có một trách nhiệm với nước đó, với dân tộc đó. Chứ không phải là khi nghĩ họ không cần dính líu gì tới mình nữa, thì bỏ đi, muốn vào thì vào, muốn đi thì đi.
Tôi nghĩ là một cường quốc không nên làm như vậy. Cũng như là nhiều người Iraq họ hợp tác với Mỹ, gia đình họ, cuộc sống họ, đất nước họ tin cậy và tùy thuộc vào sự hợp tác đó, họ đâu có thể phủi tay bỏ mặc, vì khó khăn quá. Những hình ảnh đó trên truyền hình nó làm cho tôi suy nghĩ và nhớ lại những gì xẩy ra cho đất nước Việt Nam mình trước 1975, và tủi thân, rồi tự nhiên những xúc động đó thúc đẩy mình, làm cho mình muốn viết.
NV: Có vẻ như theo lời tác giả, thì cuốn The Lotus and the Storm của bà giống như một lời trách Hoa Kỳ trong việc dính vào chiến tranh Việt Nam, làm cho cuộc chiến leo thang, rồi bỏ đi mà không làm hết bổn phận với người đồng minh đã gắn bó với mình?
Lan Cao: Vâng, đúng như vậy. Nếu mình nói về lịch sử thì ai cũng hiểu là không một nước nào có thể dính líu tới nước nào mãi mãi, và một lúc nào đó, cũng phải ra đi, nhưng mà cái cách ra đi cũng là quan trọng.
Thí dụ như hiện giờ Hoa Kỳ vẫn còn giúp Nam Hàn, vẫn có lính ở những nước khác. Sau năm 1973, Hoa Kỳ muốn ra đi, họ vẫn có thể ra đi và vẫn có thể ủng hộ mình được, như họ đã cam kết trong hiệp định Paris năm 1973.
Nhưng họ đã không làm như vậy, thành ra nước của mình mới bị sụp đổ khi mà chiến tranh đã leo thang mà không có đạn dược, không có gì hết. Và sau khi bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa (NVCH) như vậy họ, những cây bút phải tìm cách giải thích tại sao bằng cách viết sách, viết lịch sử.
Lịch sử nó cũng như là truyện là tiểu thuyết, và trong trường hợp chiến tranh Việt Nam, những người Mỹ viết truyện chỉ là để chứng tỏ là hành động của Mỹ là đúng, còn VNCH là sai, là không đáng được họ giúp nữa, cho nên miền Nam Việt Nam mới bị sụp đổ lẹ như vậy. Từ xưa đến giờ đa số sách về chiến tranh Việt Nam là chỉ do họ (tác giả Mỹ) viết thôi, còn người mình thì ít ai viết, cho nên tôi muốn viết sách để thay đổi điều đó một chút.
NV: Tác giả Lan Cao có thể tóm tắt sơ lược nội dung của cuốn ‘The Lotus and the Storm’ và nói về những nhân vật chính trong cuốn sách này không?
Lan Cao: Cuốn sách này có hai nhân vật chính, một người đàn ông tên Minh, hồi xưa là lính nhẩy dù trong quân lực VNCH, và con gái của ông tên Mai, họ ở tiểu bang Virginia. Nhân vật người lính dĩ nhiên kể rất nhiều về đời lính của họ. Trong sách tôi nói đến tất cả những biến cố lớn trong lịch sử Việt Nam, chẳng hạn năm 1963, năm mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị đảo chánh, rồi năm 1965, lúc có nhiều lính Mỹ đến Việt Nam, rồi Tết Mậu Thân năm 1968, rồi 1973 với hiệp định Paris, rồi 1975 mất nước, và 1978 với những người vượt biên…
Tất cả những biến cố rất quan trọng này đối với cộng đồng Việt Nam chúng ta, tôi viết với quan điểm của một người lính VNCH, vì hồi xưa đến giờ điều này chưa có trong những nhà xuất bản của Mỹ. Những ngày đó từ trước đến giờ toàn là do những người viết lịch sử của Mỹ viết từ quan điểm của người (lính) Mỹ.
Còn chuyện của cô bé Mai, là tôi viết về những lịch sử riêng của Việt Nam, không dính gì về chiến tranh Việt Nam từ năm 1945 đến 1975. Qua nhân vật Mai tôi viết về thức ăn Việt Nam, văn hóa Việt Nam, nhạc Việt Nam, một đời sống bình thường của một người dân. Nói tóm lại, cuốn ‘The Lotus and the Storm,’ có hai câu chuyện, một câu chuyện chiến tranh và một câu chuyện của một người dân bình thường, giống như một người dân của một nước bình nào khác.
NV: Như vậy có phải nhân vật Mai chính là tác giả Lan Cao, và nhân vật Minh, người lính quân lực VNCH, là hình ảnh của thân phụ bà, cố đại tướng Cao Văn Viên không?
Lan Cao: Vâng, có chút chút ạ. Phần đông tác giả khi họ viết sách thì bao giờ cũng có một chút về cuộc đời của họ, nếu không là của họ, thì cũng là của người thân. Đúng rồi, chuyện của nhân vật Mai thì hơi dính vào cuộc đời của tôi, và chuyện của người lính thì có một chút, và dựa vào cuộc đời của ba tôi.
NV: Ngoài việc kể lại những đau thương do chiến tranh gây ra, mục đích chính của bà khi viết ‘The Lotus and the Storm’ về chiến tranh Việt Nam là gì, và làm sao để bà đo lường sự thành công của cuốn sách?
Lan Cao: Tôi muốn cho người Mỹ họ hiểu là những truyện, những sách họ viết không phải là những điều duy nhất, những quan điểm duy nhất mà thế giới được biết về Việt Nam và cuộc chiến Việt Nam, mà người Việt Nam có một cái nhìn khác.
Những tác giả Mỹ khi họ muốn viết về chiến tranh Việt Nam, họ chỉ phỏng vấn những người lính của họ, rồi họ đi về Việt Nam họ phỏng vấn người lính của Hà Nội, họ không hỏi gì, không để ý gì đến cộng đồng cả triệu người Việt Nam ngay ở nước Mỹ đây.
Mục đích của tôi là để cho thấy người Việt Nam là một dân tộc có danh dự, và mình là một cộng đồng đã đóng góp rất nhiều cho nước Mỹ. Để cho họ thấy là những người đã di cư qua nước này, tuy là đã thành người Mỹ, nhưng mà vẫn có riêng một lịch sử vinh dự ở đây. Người Việt mình phải có tiếng nói của chính mình ở xã hội này, mình không thể chỉ để người ta nói về mình, mà chính mình phải nói ra.
Bìa sau của tác phẩm The Lotus and the Storm của tác giả Lan Cao, sắp được ra mắt ở Barnes & Noble. (Hình: tác giả cung cấp)
NV: Sách vừa được phát hành vào ngày 14 tháng Tám, dự tính của bà để giới thiệu tác phẩm ‘The Lotus and the Storm’ đến cộng đồng người Việt như thế nào, thưa bà?
Lan Cao: Cuốn Monkey Bridge (Cầu Khỉ) đã được cộng đồng người Việt rất ủng hộ. Những nhà xuất bản Mỹ họ kỳ vọng là khi xuất bản một cuốn sách về Việt Nam, nhất là do một người Việt viết, thì chắc chắn là có nhiều người Việt Nam muốn đọc, vì rất đông người Việt mình ở đây. Còn nếu người Việt mình không ai mua sách hết thì họ sẽ nghĩ là kỳ sau không xuất bản sách của người Việt viết nữa, vì cộng đồng của mình không ủng hộ. Hy vọng cuốn sách này cũng được cộng đồng mình ủng hộ, nhất là so với cuốn Monkey Bridge, cuốn này tập trung vào chiến tranh Việt Nam, vì nhân vật chính là một người lính VNCH, tả về chiến tranh Việt Nam qua cái nhìn của họ.
NV: Nhà xuất bản Viking Penguin có tổ chức những buổi đọc sách để giới thiệu tác phẩm ‘The Lotus and the Storm’ đến độc giả ở quanh đây, bà có thể nói về những buổi giới thiệu sách này không?
Lan Cao: Vâng tôi rất may mắn được nhà xuất bản ủng hộ, nên họ tổ chức nhiều buổi ra mắt sách khắp nơi. Tại những buổi này, tôi sẽ đọc một số chương, ký tên lên sách, và trả lời câu hỏi của độc giả. Riêng ở những vùng gần Little Saigon, thì có ba buổi giới thiệu sách:
* Thứ Năm này, ngày 21 tháng Tám, lúc 7PM, tại Pages Bookstore, ở 904 Manhattan Avenue, Manhattan Beach.
* Chủ Nhật ngày 24 tháng Tám, lúc 3PM, tại Barnes & Noble, ở 7881 Edinger, Huntington Beach (trong Bella Terra Shopping Center)
* Thứ Ba ngày 2 tháng Chín, lúc 7:30PM, tại Skylight Book, ở 1818 North Vermont Avenue, Los Angeles.
Đặc biệt buổi ra mắt tại Huntington Beach vào Chủ Nhật, 24 tháng Tám này, có sự hỗ trợ của tổ chức VAALA.
NV: Cảm ơn tác giả Lan Cao đã dành thì giờ cho cuộc phỏng vấn, và chúc những buổi ra mắt sách được nhiều độc giả người Việt tham dự.
______
Liên lạc tác giả: hagiang@nguoi-viet.com
……………………………………………………………………………………………….
Cuộc đời thường nhật của Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM
Nguồn: Ngô Đình Châu – Trang Tưởng Niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm
TT Ngô Đình Diệm được đón tiếp long trọng tại nước Mỹ 1957(Hình:tạp chí Life)
Tổng Thống Ngô Đình Diệm dáng người thấp, mái tóc đen, chân đi hai hàng, nhưng bước chân đi rất mau lẹ. Ông ăn uống thanh đạm, thường dùng bữa ngay tại phòng ngủ, do ông già Ẩn hoặc đại úy Bằng phục vụ. Thực đơn ít khi thay đổi, gồm cơm vắt, muối mè, cá kho và rau. Ông thích làm việc trong phòng ngủ, trang trí sơ sài với một cái giường gỗ nhỏ, một bàn tròn và ba ghế da. Tổng Thống là một người công giáo rất sùng đạo, ông thường dự thánh lễ mỗi buổi sáng tại nhà nguyện trong Dinh Độc Lập hay tại nguyện đường Dòng Chúa Cứu Thế. Tổng Thống sống rất nặng về lý tưởng, ông chịu ảnh hưởng Khổng Giáo nghiêm khắc, và là một tín hữu Công Giáo trung tín, đức hạnh.
Ông thích chụp hình và sưu tầm các loại máy ảnh. Tiền bạc dùng cho công vụ thì được giao trọn cho Chánh Văn Phòng Võ Văn Hải, vì ông không có nhu cầu tiêu xài riêng. Tổng Thống sống độc thân và theo bà Ngô Đình Thị Hiệp, thân mẫu Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận cho biết, ông đã tự nguyện khấn hứa theo nếp sống của một tu sĩ công giáo, trong thời gian lưu trú tại tu viện Maryknoll ở Lakewood , thuộc tiểu bang New Jersey, năm 1950.
TT Ngô Đình Diệm nghỉ trưa trên một lán tre nhân đi kinh lý thăm đồng bào di cư đã định cư tại miền Hậu Giang miền Nam- Hãy nhình đôi giầy của Tổng Thống mà tội nghiệp ! (Hình : Life)-
Theo Đại Uý Tùy Viên Lê Công Hoàn cho biết, thưòng ngày mỗi buổi tối, ông già Ẩn giăng sẵn mùng và sáng sớm lại gỡ ra. Trong suốt chín năm trời, Tổng thống thưòng dùng bữa một mình, ngay tại một căn phòng trong Dinh, thỉnh thoảng mới có ông Võ văn Hải cùng ăn, trừ những buổi tiệc tùng dạ hội. Tổng Thống sống trong một thế giới riêng, gần như cách biệt với gia đình ông Ngô Đình Nhu. Rất ít khi ông ăn cơm chung với gia đình ông bà Ngô Đình Nhu. Hoặc nếu có dùng cơm chung với ông bà Nhu, thì ông dùng món ăn riêng của ông. Vì vậy trong Dinh có hai đầu bếp, một đầu bếp của vợ chồng ông bà Nhu, một đầu bếp của Tổng Thống.
Tổng Thống ăn uống không có giờ giấc nhất định. Bữa cơm chiều có khi là 8 hoặc 10 giờ đêm. Khi gặp ai vui chuyện, ông có thể mạn đàm lan man cả 2 – 3 giờ liền. Ông hay dùng thứ bánh Pâté- Chaud bán ở Bưu- Điện Sài- Gòn và ông khen là ngon tuyệt.
Thông lệ, mỗi buổi sáng sĩ quan tuỳ viên đem vô phòng Tổng Thống một xấp báo đủ loại, ông vừa ăn điểmtâm vừa đọc. Thỉnh thoảng có gì đặc biệt lắm ông mới sang phòng ông bà Nhu ngồi uống nuớc nói chuyện lan man. Theo sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn cũng như Đại Úy Bằng và ông già Ẩn cho biết thì anh em ông Diệm và Nhu không mấy khi hàn huyên tâm sự. Ông Diệm rất kính trọng và vâng lời Đức Cha Ngô Đình Thục theo quan niêm quyền huynh thế phụ.
Trưóc khi qua Roma dự Cộng Đồng Vatican Đức Cha Thục vào Dinh ở lại ít ngày. Như thuờng lệ, Đức Cha vào chào anh em Tổng Thống. Theo sĩ quan tùy viên cho biết thì anh em Tổng Thống rất giữ lễ với nhau, chứ không suồng sã tự nhiên. Khi về Dinh, Đức Cha Thục thưòng dùng cơm với ông bà Nhu. Và mỗi lần như vậy, Tổng Thống Diệm lại ghé qua phòng ông em, nhân tiện đáp lễ ông anh. Đức Cha Thục nói điều gì thì Tổng Thống nghe điều đó. Tuy nhiên, mỗi lần không vừa ý, Tổng Thống chỉ biết thở dài, cau có và hết sức bẳn gắt với sĩ quan tuỳ viên. Cũng không mấy khi ông bà Nhu vô phòng riêng của Tổng Thống, trừ mấy đứa con trai của ông bà Nhu.
Căn phòng riêng của Tổng Thống vừa là phòng ngủ, vừa là chỗ làm việc, bao giờ cũng có cận vệ gác ở ngoài cửa cùng với một sĩ quan Tuỳ Viên túc trực ngày đêm, làm việc từng ca thay phiên nhau. Bất kỳ ai thăm viếng, về phía quân sự đều qua tay sĩ quan Tuỳ Viên Tham Mưu Biệt Bộ Phủ Tổng Thống sắp xếp, về phía dân sự và ngoại giao đoàn, do Nha Nghi Lễ đảm trách.
Không kể Đỗ Thọ đã chết, 3 Tuỳ Viên còn sống sau cuộc đảo chính 1963, trong đó có Đại Uý Lê Châu Lộc, cùng Đại Uý Bằng hầu cận, đều cho biết, họ không hề bị Ông Bà Nhu chi phối. Gặp ông bà ấy thì chỉ chào hỏi vậy thôi. Họ làm việc trực tiếp với Tổng Thống và làm việc theo kiểu người nhà, phi nguyên tắc, luật lệ. Vào phòng Tổng Thống lúc nào cũng được, và cửa phòng Tổng Thống không bao giờ khoá mà chỉ khép hờ. Ngưòi đưọc coi là ngang ngược, hay gây gổ với bà Nhu là Đại Uý Bằng. Thế giới của Tổng Thống Diệm là thế giới tình cảm khá khép kín.
Quy tụ quanh Tổng Thống là những ông Chánh Văn Phòng Võ Văn Hải, Bí Thư Trần Sử, rồi đến 4 sĩ quan Tuỳ Viên, ông già Ẩn, Đại Uý Bằng và mấy người thân cận khác.
Ngoài ra, Tổng Thống còn thích làm thơ. Và bài thơ Đường luật nói lên nỗi lòng khắc khoải của ông còn được truyền tụng đến ngày nay. Xin chép ra sau đây:
* Nỗi lòng
Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông.
Hỏi bến thuyền không lái cũng không.
Xe muối nặng nề thương vó ký (*),
Dường mây rộng rãi tiếc chim hồng.
Vá trời lấp biển người đâu tá?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông!
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế.
Cắm sào đợi khách, thuở nào trông.
[(*) TT mượn điển tích Chu Bá Nha và ngựa Ký là tên loại ngựa rất khoẻ và dai sức, được dùng để thồ muối rất nặng đi đường trường]
Ông cũng biết vẽ và nét vẽ rất đẹp. Bức vẽ cuối cùng của ông là ngôi Thánh đường dự định xấy cất ở khu Phượng Hoàng. Ông đã có ý định không ra ứng cử Tổng Thống nhiệm kỳ tới và có ý sẽ lui về an dưõng ở Khu Phượng Hoàng.
TT Ngô Đình Diệm yêu thích nghệ thuật, tâm hồn phóng khoáng (Hình:tạp chí Life)-
Trước đó đã có một dự án chỉnh trang toàn thể Khu Cồn Hến tại Huế để làm nơi Tổng Thống Diệm trở về vui thú điền viên. Khu này đưọc coi là một trong mấy khu thơ mộng nhất ở Huế, cách thôn Vỹ Dạ chỉ một con sông. Khi dự án đưọc trình lên, Tổng Thống không vừa ý và cho dẹp bỏ rồi tự tay mình phác họa khu Phượng Hoàng. Ngôi Thánh Đưòng cũng tự tay ông vẽ. Tổng Thống Diệm ưa thích đánh cờ tướng, nhưng không phải là tay cao cờ. Nhiều lần, trong lúc cao hứng, ông cho gọi Đại uý Bằng và Ngô Đình Trác vào phòng riêng của Ông, rồi bảo hai ngưòi đánh cờ để ông ngồi xem. Ông có thể ngồi như vậy trong một hai giờ liền.
Thú vui nhất của Ông là chụp hình và rửa hình. Thỉnh thoảng cao hứng, ông lại đưa các con ông Nhu ra chụp vài “pô”, hay chụp mấy sĩ quan Tuỳ Viên.
Tướng Lê văn Kim được coi là “người bạn” của Tổng Thống về phương diện chụp hình và rửa hình. Một lần vào năm 1961, vợ chồng Bác sĩ Trần Kim Tuyến đang coi ciné ở rạp Đại Nam thì có thuộc viên tìm đến cho biết: “Tổng Thống điện thoại gọi Bác sĩ vô Dinh gấp”. Hai vợ chồng ông Tuyến bỏ dở buổi ciné trở vô Dinh, bà vợ ngồi dướí xe đợi từ 10 giờ sáng tới gần 2 giờ chiều mới thấy ông Tuyến trở ra. Bác sĩ Tuyến được Tổng Thống tiếp 4 giờ đồng hồ liền không ngoài việc máy ảnh và chụp hình, vì Tổng Thống mới mua một máy chụp hình hiệu Canon, cho nên gọi ông Tuyến vào để chí cách sử dụng, mỗi lần như thế ông rất vui và cởi mở.
Đặc biệt là Tổng Thống không thích uống rượu, chỉ cần một ngụm nhỏ là mặt ông đã đỏ gay. Tuy vậy trong phòng ông cũng có một chai rưọu nho, thỉnh thoảng ông nhấm nháp một đôi chút. Và những lần như thế là giới hầu cận đều biết ngay Tổng Thống đang có chuyện vui. Đầu bếp trong Dinh đã phải chế tạo riêng một loại sâm banh đặc biệt. Loại “Rượu” sâm banh (champagne) này, thực ra chỉ là nưóc ngọt cho vào chai và khi mở cũng nổ chan chát và sùi bọt như sâm banh thực thụ, để khi có tiệc lớn với các Đại Sứ và Quốc Khách, Tổng Thống sẽ dùng loại sâm banh đặc chế này.
Tổng Thống thường sống xa mẫu thân, nên ông rất kính trọng và vâng lời các anh. Sau khi từ chức Thượng Thư của triều đình Huế (1933), ông không về sống tại Phú Cam, mà về ở trong một ngôi nhà của anh Ngô Đình Khôi tại Vĩnh Điện, Quảng Nam. Trong ngôi nhà đó chỉ có ông Diệm và ông Bằng. Ông Bằng thì lo cơm nước, quần áo và mọi sự cho cựu Thượng Thư. Một vài tuần, ông lại về Phú Cam một buổi, rồi cứ vài tháng thì lại vào Nam. Từ đó, ông Diệm đã khép kín cuộc đời. Đi hay về không một ai biết.
Khi ông Ngô Đình Khôi bị Việt Minh sát hại năm 1945, Đức Cha Thục trở thành ngưòi có ảnh hưởng lớn nhất tới ông Diệm. Qua tập Albums gia đình họ Ngô, chúng ta thấy Đức Cha Thục và ông Diệm hay cùng nhau chụp hình, hai người tỏ ra khá tương đắc.
Ai ai cũng biết ông Diệm là người ngoan đạo, vì đó là truyền thống của gia đình ông, và ít khi ông đi nhà thờ ở ngoài. Tại nhà ông ở Phú Cam, có nhà nguyện riêng cho gia đình. Chủ nhật có linh mục đến làm lễ tại nhà. Linh mục Cao Văn Luận từng làm nghi thức tôn giáo nầy ở đây. Riêng bản thân ông Diệm thì ngày ngày ông rất chăm chỉ cầu kinh. Mặc dù rất ngoan đạo, nhưng ông đã phân chia phần đạo, phần đời rất rõ rệt. Tôn giáo thuộc đời sống tinh thần do mỗi cá nhân có quyền lựa chọn . Ông không đưa đạo vào đời trong sinh hoạt hằng ngày. Từ khi ông làm Tri Phủ Hải Lăng cho đến khi bị thảm sát vào ngày 2-11-1963, ông không dùng quyền hành phần đời để phục vụ cho đạo. Nhờ vậy, những người theo phò ông Diệm trước khi ông về làm Thủ Tướng, rồi làm Tổng Thống, phần đông là Phật tử, và không ai e ngại rằng khi ông Diệm cầm quyền thì đạo Phật của họ sẽ bị bách hại. Có những người như ông Võ Văn Hải, bí thư của ông Diệm hay ông Phạm Thư Đường, bí thư của ông Ngô Đình Nhu họ có phải là người theo đạo Thiên Chúa đâu, và họ có bị buộc phải từ bỏ đạo Phật đâu. Có lẽ trong thâm tâm ông Diệm, và cả ông Nhu nữa, không hề có chủ trương “kỳ thị hay đàn áp tôn giáo”.
Vì thế khi cầm quyền, Tổng Thống thường hỗ trợ việc tu sửa chùa chiền bị hư hỏng ở Huế, như chùa Linh Mụ, chùa Báo Quốc, … Đặc biệt là chùa Linh Mụ: thắng cảnh và biểu tượng của Huế, thuộc tài sản quốc gia. Các chùa ấy do các vị vua nhà Nguyễn xuất công quỹ xây cất. Nhưng đó không phải là tài sản riêng của các vua hay hoàng thân quốc thích, không là của cá nhân ai hay hội đoàn nào. Việc TT Ngô Đình Diệm cho xuất ngân sách quốc gia để tu sửa tài sản quốc gia là một chuyện bình thường. Nhưng có ai không nghĩ rằng bên cạnh hành động đó, là cảm tình của ông Diệm đối với đạo Phật, một tôn giáo của đông đảo quần chúng Việt Nam, với một người đang cầm quyền tự thấy mình là người lo cho dân thì không lo việc tôn giáo của dân hay sao?
Khoảng năm 1956-57, khi Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam chuẩn bị cho ra tờ giấy bạc $500, ông Diệm ra lệnh in hình chùa Linh Mụ trên tờ giấy bạc nầy. Tỉnh trưởng Thừa Thiên-Huế trình ông Cẩn, ông Cẩn theo dõi việc chụp hình chùa Linh Mụ gởi vào Saigon. Nhiều tấm hình chụp các lần trước, bị ông Diệm chê, bắt chụp lại cho đến khi thật hoàn hảo. Sau nầy tờ giấy bạc $500 đầu tiên in hình chùa Linh Mụ là bắt đầu từ việc như vậy.
TT Ngô Đình Diệm đã chống lại sự can thiệp quân sự của Mỹ vào Việt Nam. Ông nói: “Nếu quý vị mang Quân đội Mỹ vào Việt Nam, tôi phải giải thích thế nào đây với dân tộc tôi? Với người dân Việt, hình ảnh hãi hùng của Quân đội Viễn chinh Pháp vẫn còn hằn sâu trong tâm trí họ. Sự can thiệp của bất cứ quân đội ngoại quốc nào vào Việt Nam cũng đem lại sự bất lợi cho Việt Nam” [2].
Có những nguồn tin cho rằng vào ngày 25-08-1963, TT Ngô Đình Diệm bắt đầu xem xét khả năng bắt tay với Hồ Chí Minh – Bắc Việt, đề xuất khả năng thành lập chính quyền liên bang[3][4].
Vào ngày 25 tháng 08 năm 1963, có buổi tiệc tiếp tân Đại Sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge. Trong buổi tiệc này, lần đầu tiên ông Nhu gặp đặc sứ Ba Lan Maneli (trong Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến). Ông Maneli khoe với ông Nhu là mình có mối liên lạc trực tiếp với phía Bắc Việt (thông qua Phạm Văn Đồng và Xuân Thuỷ).
Thế là ông Nhu móc nối với Maneli để tiếp cận với phía Bắc Việt. Ông Nhu cũng không ngờ rằng toàn bộ tài liệu mật giao cho Maneli thì đã bị đặc sứ Maneli bán đứng cho CIA. Sau đó, gia đình Maneli được phép tỵ nạn tại Mỹ (thành phố New York). Trước đó ông Nhu cũng đã 2 lần tiếp xúc với phía Bắc Việt (thông qua Phạm Hùng và Tạ Đình Đề) tại một khu rừng gần Ban Mê Thuột và gần Bình Tuy – Phan Thiết. Tạ Đình Đề là bạn học cũ của ông Ngô Đình Nhu. Tạ Đình Đề là Trung Tá quân báo VC (cận vệ của Hồ Chí Minh) lúc đó đã lập mưu giả làm một vụ ám sát hụt Hồ Chí Minh. Sau đó, Tạ Đình Đề làm khổ nhục kế để bị bắt ra toà của Việt Cộng (Toà án Việt Cộng xử 10 năm tù). Tiếp đó thì Tạ Đình Đề bị trục xuất qua Pháp. Ông Nhu nghi là giả nên không cho người tiếp xúc với Tạ Đình Đề.
Nhiều người cho rằng chính thái độ cương quyết chống lại sự can thiệp quân sự của Mỹ trực tiếp vào Việt Nam, đã là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc đảo chính quân sự ngày 1 tháng 11 năm 1963, do một số tướng lĩnh QLVNCH cầm đầu với sự ủng hộ của Mỹ.
[Trang Tưởng Niệm] [Tin Tức & BL] [Trang chính]
…………………………………………………………………………………………….
CÁI GÌ CỦA TRẦN TRỌNG KIM PHẢI ĐƯỢC TRẢ VỀ CHO TRẦN TRỌNG KIM
Nguồn: Du Minh – Trí Nhân Media – 20-8-2014
LTG: Bài này đã được đăng trước đây. Nhân kỷ niệm 69 năm, ngày Chính phủ Trần Trọng Kim bị cộng sản cướp 19/08/1945, xin gửi bà con lần nữa.
Cộng sản đã tuyên bố cướp chính quyền năm 1945. Điều đó có nghĩa là Việt nam khi đó có một chính quyền thực sự rồi bị cộng sản cướp. Chứ không có tình trạng vô Chính phủ. Để có tiếng chính danh, cộng sản không ngừng bôi nhọ Chính phủ Trần Trọng Kim, nào là bù nhìn của Nhật, nào là không làm gì cho dân cho nước.
Ngày nay, thế hệ trẻ cũng bị nhồi sọ mà cho rằng Chính phủ Trần Trọng Kim hoặc không tồn tại, hoặc không đáng tồn tại mà phải để chỗ cho cộng sản.
Nhưng, lịch sử thì không thể bị bóp méo. Một trong những bằng chứng về những gì Chính phủ Trần Trọng Kim đã làm lại từ chính tờ báo của chính quyền cộng sản đăng lên. Đó là tờ Văn hóa Nghệ An: http://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song-quanh-ta46/hue-nam-1945-va-chinh-phu-tran-trong-kim*
…Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời trong một hoàn cảnh rất tình cờ của lịch sử, không do kết quả tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của một đảng phái hay một phong trào chính trị nào. Sau gần một thế kỉ bị Pháp đô hộ, lần đầu tiên nước Việt Nam được độc lập(dù mới chỉ một phần) mà không phải hi sinh xương máu.
Việt Nam được độc lập (dù mới chỉ một phần) mà không phải hi sinh xương máu. Đó là một tình thế lý tưởng, còn hơn cả Ấn Độ tuy cũng không hi sinh sương máu nhưng phải 2 năm sau đó, 1947.
Cộng sản đã thí bao nhiêu dân để có được một cái “độc lập” trong vòng tay của quốc tế cộng sản?
Chính phủ Nhật giữ Bảo Đại nhưng không muốn giữ Phạm Quỳnh vì ông là người bị coi là thân Pháp. Thật ra, Phạm Quỳnh là một học giả yêu nước nhưng cũng là một nhà chính trị ôn hoà, chủ trương rằng Việt Nam thời đó không thể chống nổi Pháp nên cần phải học hỏi văn minh Tây phương qua văn hoá Pháp để dần dần đòi lại quyền tự chủ.
Chính vì là “một học giả, yêu nước nhưng cũng là một nhà chính trị ôn hoà, chủ trương … dần dần đòi lại quyền tự chủ”, mà Phạm Quỳnh đã bị Hồ giết. Đó cũng là số phận của bất cứ ai giỏi hơn Hồ, cho dù yêu nước, thương dân.
… sau ngày Nhật đầu hàng đồng minh, Đại sứ Yokohama thuật lại buổi yết kiến vua Bảo Đại để báo tin việc chính phủ Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và trao trả độc lập cho Việt Nam. Phạm Quỳnh hiện diện trong buổi tiếp kiến này yêu cầu Nhật Bản thừa nhận nền độc lập của Việt Nam một cách chính thức vì Pháp đã bị tước quyền bảo hộ. Ông nhấn mạnh rằng: “Để chúng tôi có thể hợp tác hữu hiệu với Nhật Bản, chúng tôi cần phải có được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân, và để đạt được điều đó, uy tín của chính phủ chúng tôi cần phải được tăng cường bằng một hành động long trọng tuyên cáo độc lập”. Yokohama trả lời rằng việc tuyên cáo độc lập để chứng tỏ chủ quyền là hành động nội bộ mà “Ngài có tự do tuyệt đối để hành động theo sự phán xét của chính phủ ngài”.
Phạm Quỳnh mong muốn có một Việt Nam độc lập và Nhật đã đồng ý. Như vậy không ai có thể lên án Phạm Quỳnh về vấn đề độc lập. Ngoại trừ, cộng sản tìm mọi cớ giết ông ta.
Đoạn dưới đây gói gọn những gì mà cộng sản đã làm để bôi nhọ Chính phủ Trần Trọng Kim:
Chính phủ Trần Trọng Kim thường không được nhắc nhở đến trong lịch sử tranh đấu giành độc lập cho dân tộc, hoặc nếu có thì cũng chỉ được coi như một chính phủ chuyển tiếp trong một thời gian ngắn ngủi không có thành tích gì đáng kể. Việt Minh thì dứt khoát lên án chính phủ Kim là “bù nhìn” do Nhật tạo ra và chỉ đem lại cho Việt Nam một nền “độc lập bánh vẽ”. Nhiều nhà lãnh đạo chính trị và tác giả ngoại quốc cũng đồng ý một cách thiếu thận trọng như thế. Đến nay, hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, giai đoạn lịch sử này cần được xem xét lại một cách khách quan về tính chất chính đáng của chính phủ ấy.
Nhật đảo chính Pháp ngày 09/03/1945. Chỉ 2 ngày sau, 11/03/1945, vua Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập và Hiệp ước Việt – Pháp năm 1884 không còn hiệu lực vì Pháp không còn bảo hộ được cho Việt Nam.
Những lý do mà Việt Nam có thể độc lập mà không tốn xương máu đã thuyết phục Trần Trọng Kim nhận thành lập Chính phủ:
Luật sư Trịnh Đình Thảo, sau này là Chủ tịch của Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình (LMDTDCHB) trong hệ thống Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam (MTDTGPMN) cho biết Trần Trọng Kim “không tin ở sự thành thật của nhà cầm quyền người Nhật và lo ngại bị lôi cuốn vào những biến cố có hại cho tương lai của xứ sở” nhưng ông Thảo đã thuyết phục được ông Kim nhận lời yêu cầu của Bảo Đại với lý do “phải gấp rút thành lập chính phủ Việt Nam độc lập để đặt các lực lượng đồng minh, nhất là Pháp, trước một tình trạng pháp lý không thể đảo ngược bằng lời tuyên cáo hủy bỏ những hiệp ước Bảo hộ năm 1862 và 1874, tuyên cáo nước Việt Nam độc lập và thống nhất”.
Cộng sản đã làm gì so với Chính phủ Trần Trọng Kim?
1 – gây đổ máu, gây chiến tranh, tiêu diệt những người Việt yêu nước : Quốc dân đảng (vụ Ôn Như Hầu), Tạ Thu Thâu, … Tội lỗi đều do Hồ Chí Minh, Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp gây nên.
2 – tạo điều kiện cho quân Pháp-Anh và Tưởng vào Việt Nam. Vì nếu Chính phủ Trần Trọng Kim còn tồn tại, thì nối tiếp của Bảo Đại có danh chính ngôn thuận và các Hiệp ước với Pháp cũng bị vô hiệu hóa.
3 – chia cắt đất nước, rồi rước Pháp từ Nam ra Bắc và lại xin vào Liên hiệp Pháp theo Hiệp ước sơ bộ Fontainebleau 06/03/1946.
Hãy coi Chính phủ Trần Trọng Kim mà cộng sản gọi là Chính phủ bù nhìn đã làm những gì:
Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời trong những điều kiện khó khăn về chính trị, an ninh và kinh tế như vậy. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Nội các, bên cạnh công tác khẩn cấp cứu trợ nạn đói ở miền Bắc đã làm ngót hai triệu người thiệt mạng, chính phủ Trần Trọng Kim đã ấn định một chương trình sáu điểm:
1. Chuyển giao tất cả các cơ sở hành chính cho các viên chức Việt Nam.
2. Thâu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp.
3. Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị.
4. Cho phép thành lập các đảng phái chính trị.
5. Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo.
6. Thiết lập các Uỷ ban tư vấn quốc gia để soạn thảo Hiến pháp và nghiên cứu cải tổ chính trị, hành chính và giáo dục.
Chỉ trong thời gian bốn tháng (từ 17 – 4 đến 16 – 8), chính phủ Kim đã thực hiện được gần hết chương trình này.
Chính phủ cũng cứu trợ nạn đói mà khẩn cấp nữa, đâu cần gì đến cộng sản.
Theo 2 điều đầu, thì đến 16/08/1945 Việt Nam đã gần như độc lập với đầy đủ các cơ quan hành chánh. Không tốn một viên đạn. Mà từ Móng Cái đến Cà Mau, chứ không chỉ một miền.
Những điều 3 đến 6 mà Chính phủ Trần Trọng Kim làm được khi đó, thì chỉ là mơ ước của người dân Việt hiện nay, tức là 68 năm sau với hàng triệu sinh mạng.
Bước tiến hay thụt lùi? cách mạng hay phản động? Có khó trả lời không?
Những thành quả của Chính phủ Trần Trọng Kim được tóm tắt:
“- Cứu đói: Bộ Tiếp tế do bác sĩ Nguyễn Hữu Thi cầm đầu nỗ lực điều động việc vận tải thóc từ Nam ra Bắc. … nhờ sự thành lập Tổng hội Cứu tế nạn đói để phối hợp hoạt động với những hội chẩn tế và những đoàn thanh niên cứu đói trên toàn quốc … số người chết vì nạn đói … (giảm rất nhiều)”
Vận động toàn quốc cứu đói. Cộng sản làm gì được hơn?
– Chủ quyền: Để biểu hiệu cho sự thống nhất ba miền lãnh thổ, quốc hiệu “Việt Nam” chính thức thay thế cho quốc hiệu “An Nam” đang được sử dụng…. Ngày 1 – 8, Thủ tướng Kim phải đích thân từ kinh đô Huế ra Hà Nội gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi Yuitsu, không những yêu cầu trả ngay phần còn lại của lãnh thổ mà còn đòi luôn các công sở thuộc về phủ toàn quyền Pháp khi trước. Tất cả những đòi hỏi này đều được Tsuchihashi chấp thuận, và hai bên ấn định ngày trao trả Nam Bộ là 8 – 8 và ngày trao trả các công sở là một tuần sau đó. Cũng trong dịp gặp Tsuchihashi, Trần Trọng Kim đã được Nhật đồng ý chuyển giao lại các binh sĩ Việt Nam, cung cấp 4.000 khẩu súng mới và đạn dược để tổ chức đội quân bảo an.
Lấy lại toàn bộ chủ quyền trên cả nước. Mọi công sở đều thuộc về người Việt. Có tiềm năng quân đội mà Nhật chịu cung cấp vũ khí.Cũng xin nói ở đây. Nhiều người trẻ cho rằng An Nam là tên nước cho đến thời Pháp thuộc và HCM và đảng CSVN mới là kẻ khai sinh ra nước Việt Nam. Thì ở đây, chính Văn hóa Nghệ An của đảng CSVN công nhận, Chính phủ Trần Trọng Kim đã khai sinh ra tên nước Việt Nam.
– Cải tổ: Vốn là một nhà giáo dục, Trần Trọng Kim rất chú trọng đến việc cải tổ hệ thống giáo dục, bắt đầu bằng việc sử dụng tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dạy. Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục, không những là một nhà khoa học mà còn là một học giả uyên bác, đã hoạch định xây dựng một nền quốc học trên cơ sở dân tộc và tiến bộ, nhưng chưa kịp thi hành trong một nhiệm kỳ quá ngắn ngủi. Hệ thống và chương trình Trung học do ông soạn thảo đã được các chính phủ quốc gia tiếp tục áp dụng với đôi chút sửa đổi trong nhiều năm về sau.
Phổ cập tiếng Việt. Các chương trình giáo dục mà các Chính quyền sau này còn phải làm kim chỉ nam. Chính cộng sản cũng phải công nhận tài năng của Hoàng Xuân Hãn. So với chương trình của mấy người bẻ ghi xe lửa, y tá, hoạn lợn, …, thì một trời một vực.
– Về tư pháp, do đề nghị của Bộ trưởng Tư pháp Trịnh Đình Thảo, Thủ tướng Kim ký nghị định ân xá ngày 2/5 với lệnh “Thả ngay tất cả các tù nhân chính trị” và ngày 8/5 thành lập Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp trên căn bản thống nhất xứ sở, các quyền tự do chính trị, tôn giáo và nghiệp đoàn. Ngoài ra, miễn hay giảm 13 hạng thuế được thi hành dưới thời Pháp và Nhật.
Không có tù chính trị, tự do tôn giáo, nghiệp đoàn, Hiến pháp dân chủ … Đâu cần phải dân trí cao, cũng làm được cả đó. Tại sao bây giờ lại cấm dân vì cho rằng dân không đủ trình độ tự do tôn giáo, nghiệp đoàn, …?
– Chính trị: Với chủ trương “hợp nhất tất cả các phần tử quốc dân để củng cố độc lập của quốc gia và gây mạnh cái tinh thần yêu nước trong mọi giai tầng xã hội,” …vinh danh các anh hùng dân tộc đã chiến thắng quân xâm lược và những nhà cách mạng đã hi sinh cho Tổ quốc, thay đổi tên đường phố và phá hủy những tượng đài biểu thị nền đô hộ của Pháp…khuyến khích thanh niên sinh viên tham gia các sinh hoạt chính trị, văn hoá, xã hội… Ngoài ra, chính phủ Kim cũng thực hiện tinh thần hoà giải và đoàn kết dân tộc, không phân biệt đảng phái, không chỉ bằng việc thả hết các chính trị phạm và kêu gọi họ hợp tác, mà còn can thiệp với Nhật để các thanh niên bị bắt về tội theo Việt Minh chống Nhật cũng được phóng thích.
Những kết quả trên đây cho thấy nội các Trần Trọng Kim, dù không phải là những chính trị gia có thành tích và kinh nghiệm, song đều là những nhà trí thức nhiệt tình với đất nước, hết lòng phục vụ cho quyền lợi chung của dân tộc, không tham nhũng, không chia rẽ bè phái, không tham quyền cố vị. Trước tình thế rối ren của Cách mạng Tháng Tám, Thủ tướng Kim được quân đội Nhật cho biết họ “còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân đội đồng minh đến thay,” nhưng ông đã từ chối yêu cầu Nhật bảo vệ chính phủ và muốn duy trì trật tự vì muốn tránh đổ máu và rối loạn.
Chính phủ Trần Trọng Kim có những phẩm chất gì? “trí thức nhiệt tình với đất nước, hết lòng phục vụ cho quyền lợi chung của dân tộc, không tham nhũng, không chia rẽ bè phái, không tham quyền cố vị”. Ai trong chính quyền hiện nay có một chút xíu của một trong các phẩm chất đó?
Chính phủ Trần Trọng Kim khuyến khích thanh niên tham gia chính trị, thì ngày nay chính trị là điều cấm kỵ chẳng những với thanh niên mà với mọi người dân. Thay vào đó là những trò nhảm nhí là ru ngủ thanh niên điều mà cộng sản lên án chế độ thuộc địa Pháp.
Chỉ vì lòng nhân ái, tránh đổ máu, mà Chính phủ Trần Trọng Kim đã không nhờ Nhật can thiệp diệt cỏ dại là cộng sản mà để lại hậu quả không thể lường là một Việt Nam rơi vào cảnh nồi da nấu thịt, một xã hội là một nhà tù lớn, một xã hội mà quyền con người chỉ còn là số không. Tóm lại, là một sự thụt lùi hàng trăm năm. Xã hội dưới thời Trần Trọng Kim là một thiên đường của người dân hiện nay.
Kết luận của bài viết trên báo Văn hóa Nghệ An phần nào trả lại cho Trần Trọng Kim những gì thuộc về Trần Trọng Kim và cũng qua đó gián tiếp những gì mà cộng sản đã phá qua kết quả cướp của họ:
Trong thời gian quá ngắn phục vụ đất nước, chính phủ Trần Trọng Kim không mắc phải sai lầm nào đáng bị chỉ trích, trái lại, đã thực hiện được nhiều thành tích đáng kể nhất là việc lấy lại được miền Nam và ba nhượng địa quan trọng ở miền Bắc, hoàn thành được việc thống nhất đất nước như đã nói trên. Tất cả những điều đó cho thấy Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim không phải là “bù nhìn” của Nhật và nền độc lập của Việt Nam, dù chưa hoàn toàn, vẫn là một thực tại chứ không phải “bánh vẽ”, nhất là so với những điều kiện của một “quốc gia tự do” và viễn tưởng thống nhất mơ hồ như trong Hiệp định sơ bộ 6 – 3 năm 1946 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phải ký kết với Cao uỷ Bollaert.
Từ Trần Trọng Kim đến Hồ Chí Minh mới chỉ trong khoảng 1 năm 1945-1946 đã là một sự thụt lùi rõ ràng về chủ quyền và độc lập. Việt nam đã phải trả giá với hàng triệu sinh mạng do các cuộc chiến mà Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, …, gây ra để thây tóm quyền lực và phục vụ quốc tế cộng sản. Gây thù oán với nhiều quốc gia. Sau mấy chục năm, đến nay, sự thụt lùi là toàn diện cho đến bị phá hoàn toàn, từ chính trị, văn hóa, tính dân tộc, đạo đức, giáo dục và đặc biệt là nhân quyền với các tự do chính trị, tôn giáo, ngôn luận, …
*********
Thủ bút của Trần Trọng Kim-Thư gửi Hoàng Xuân Hãn
Thủ bút của Trần Trọng Kim gửi Hoàng Xuân Hãn năm 1947
Nguyễn Đức Toàn
Viện nghiên cứu Hán Nôm
Trần Trọng Kim (1887-1953) là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu văn học, sử học có tiếng trong giới trí thức nước ta thời cận đại. Ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, như Nho giáo, Việt Nam sử lược, có đóng góp cho tri thức và nghiên cứu lịch sử văn hóa nước nhà. Trong khi tiếp xúc với văn bản Nam quốc địa dư chí, tôi phát hiện ra bức thư này nằm giữa tờ bìa ngoài gấp đôi đã bị phết hồ dán kín lại, do thời gian lâu ngày lớp hồ khô đi, trong lúc kiểm tra văn bản bức thư vô tình rơi ra. Được biết một số sách Hán Nôm có nguồn gốc từ thư viện riêng của gia đình GS. Hoàng Xuân Hãn. Bức thư này có lẽ đã đến tay cụ Hoàng và được cụ Hoàng dấu kín vào tờ bìa của cuốn Nam quốc địa dư chí, mà sau này được hiến tặng lại cho thư viện. Đối chiếu với tập hồi ký Một cơn gió bụi của cụ Trần đã được xuất bản trong những năm 60, chúng tôi nhận định đây chính xác là bút tích và giọng văn của cụ Lệ thần – Trần Trọng Kim, vì những nhân vật trong thư nhắc đến đều là những gương mặt trí thức chính trị đương thời với cụ. Ngày tháng, sự kiện, giọng văn và tư tưởng trong bức thư hoàn toàn phù hợp với ngày tháng, sự kiện, giọng văn, tư tưởng của cụ Trần trong tập hồi ký đã nêu trên.
Chúng tôi xin được giới thiệu nội dung bức thư như một phần di cảo bút tích của một nhà giáo, một học giả uyên bác và đức hạnh, một nhà nghiên cứu Nho giáo tân học cuối cùng, sau hơn nửa thế kỷ nằm im lìm trong một tập sách cũ. Thấy rõ thêm mối quan hệ giữa hai gương mặt trí thức lớn của nước ta trong lịch sử cận đại. Bên cạnh đó, đặt ra vấn đề thận trọng và nghiêm túc trong công tác bảo quản các tư liệu Hán Nôm của chúng ta hiện nay.
Bức thư gồm 2 tờ viết 2 mặt.
Nội dung như sau :
Sài Gòn, ngày 8 tháng 5, năm 1947(1)
Ông Hãn(2)
Hôm ông Phan văn Giáo(3) đưa cái thư của ông vào cho tôi, tôi không gặp ông ấy. Tôi xem thư của ông, nhất là đoạn viết bằng chữ nôm, tôi biết rõ sự tình và tôi đã phiên dịch ra quốc-ngữ, gửi sang để Ngài(4) xem.
Gần đây tôi lại được thư khác của ông, do ông Giáo gửi lại cho tôi, đại khái cũng như thư trước. Cái tình thế nước ta bây giờ, tôi cũng hiểu đại khái như ông, cho nên trước khi tôi về, tôi đã dặn Ngài : Trừ khi có bằng-chứng chắc-chắn, thì ngài chớ nghe ai mà về. Sau khi tôi đã về đây rồi tôi lại viết thư ra nhắc lại lời dặn của tôi. Vậy sự ngài về chắc là không có.
Tôi sở dĩ về đây là vì Ngài và tôi ở bên ấy(5), hoang-mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có ông Cousseau(6) do ông D’argenlieu(7) sai sang gặp Ngài và tôi, nói Pháp sẵn lòng đổi thái-độ để cầu hoà-bình. Ngài thấy thế bảo tôi về tận nơi xem thái độ người Pháp có thật không, và nhân tiện xem ý tứ người Việt ta thế nào. Nếu làm được việc gì ích lợi cho nước và để cho dân đỡ khổ, thì ta cố làm cho trọn nghĩa-vụ của mình, nếu không thì lương-tâm ta cũng yên, vì đã cố hết sức mà không làm được(8).
Tôi về đây hôm 6 tháng hai tây(9), không gặp ông D’argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho người bảo tôi chờ ông ấy sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ nhiệm về việc chính trị, nói chuyện thì tử-tế lắm và đồng ý hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường, làm một nẻo, toàn là những việc mưu-mô lừa dối cả. Lúc đầu tôi có xin cho tôi dược gặp ông, ông Hiền(10) và Khiêm(11), họ hứa sẽ cho vào ngay, nhưng mãi chẳng thấy ai vào. Tôi biết ý [tr1] cũng không hỏi nữa.
Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy gì là chân thực. Họ thấy tôi giữ cái thái-độ khảng khái không chịu để họ lợi dụng, họ phao ra rằng tôi nhu-nhược và đa nghi không làm được việc. Họ cho những người Nam thân tín của họ đến nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai cả. Cũng vì thế tôi không muốn gặp ông Giáo. Tôi có nói với người Pháp rằng : Tôi về đây, là tin ở lời hứa hẹn của ông Cousseau là đại biểu của Thượng xứ Pháp, nay công việc không xong, thì cho tôi trả ra để bảo cho Ngài biết. Họ nói : Việc ấy cố nhiên rồi, nhưng ông hãy thong-thả chờ ít lâu. Họ nói thế, nhưng tôi biết là họ không cho tôi ra với Ngài, và họ lại cho người khác nói chuyện với Ngài(12).
Dù sao, tôi cũng không ân-hận vì việc tôi về đây. Có về đây mới biêt rõ sự thực. Biết rõ sự thực thì cái bụng tôi yên không áy náy như khi ở ngoài kia. Bây giờ tôi nhất định không làm gì cả. Nếu thời cục yên-ổn thì tôi về ngoài Bắc, néu không tì xoay xở ở tạm trong này, chờ khi khác sẽ liệu.
Còn về phương diện người mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng-nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái-quốc, nhưng cái lòng ái-quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa-vị và quyền-lợi, thành ra tranh dành nhau, nghi-kỵ nhau rồi lăng-mã lẫn nhau. Tôi về đây chỉ gặp Thảo(13), Hoè(14) và Sâm(15). Tôi bảo Sâm nên tìm cách đoàn kết nhau thành khối, thì mới có thể đối phó với người ta được. Sâm cũng cho ý kiến ấy là phải. Song một độ thấy bẵng đi, không đến gặp tôi, rồi bất thình-lình xuất hiện ra Mặt trận quốc gia(16), mà không cho tôi biết. Mãi mấy hôm nay mới đến nói rằng vì sự đi lại khó khăn, nên không kịp nói cho tôi biết việc ấy. Tôi bảo hắn rằng : Việc ông làm đó, là việc nên làm, nhưng trước hết phải xếp đặt cho chu-đáo, phải có đủ các cơ-quan tuyên truyền và bênh-vực việc làm của mình. Nhất là phải giao-thông với Mặt trận kháng chiến(17), họ [tr2] có đồng ý, thì việc ông làm hoạ may mới có hiệu-quả. Nay việc chưa xếp đặt ra gì cả mà ông đã vội-vàng xướng xuất ra như thế, tôi e khó thành được. Hắn nói : Việc đã trót rồi, đã ném lao thì phải theo lao.
Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà minh thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái dịa vị bàng-quan mà thôi, thật là:
身 在 南 蕃 無 所 預
心 懐 百 憂 復 千 慮
(Thân tại Nam phiên vô sở dự,
Tâm hoài bách ưu phục thiên lự.
= Thân ở cõi Nam không tham dự việc chính trị,
Lòng đã ôm trăm mối lo lắng lại thêm nghìn điều ưu lự)
Tôi vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có V.M. mới làm nổi, nhưng vì chỉ tiếc họ quá thiên về chủ-nghĩa cọng-sản quá. Họ chỉ có một mục-đích là thi hành chủ nghĩa của họ, họ dùng đủ phương diện để đưa người ta vào cái chòng của họ. Sự hành-động của họ ở bên ta cũng như bọn cọng sản đã dùng ở bên Tàu và ở các nước khác, đều theo một lối đúng nhau như hệt. Họ không cần quốc-gia, không cần đạo-đức, nhưng có nhiều người tin ở nghĩa quốc-gia, thì họ lợi dụng cái nghĩa quốc-gia để đạt cái chủ-nghĩa của họ. Lừa dối xảo-quyệt đủ đường, cho nên người ta dễ mắc lừa lắm.
Nay V.M. đứng vào cái địa-vị chống Pháp, tất là có cái thanh-thế rất mạnh. Nếu họ biết đổi cái thái-độ hung tàn bạo ngược đi, và tìm cách thu dụng các đảng phái khác, để lập thành một khối, không khuynh hướng hẳn về Cọng sản, thì có cơ thành công được, nhưng bảo con chó sói trở nên con cừu, thì có thể được không? Dù sao, đối với viêc nước mình, V.M phải chịu cái tiếng 功 之 首 罪 之 魁(Công chi thủ tội chi khôi = Công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu). Đó là ý kiến riêng của tôi, còn các ông nghĩ thế nào tôi không biết.Khi tôi ở Hương- cảng, ông Cousseau có cho tôi biết tin ông Oánh(18) bị Tây giết, tôi thương ông Oánh quá, có làm bài tuyệt- cú gửi về, nhờ ông đem điếu ông ấy:
Khóc bạn Nguyễn Băng Hồ
Đất khách mơ – màng những thở – than,
Mảng tin bác bị lũ hung tàn.
Ngắn dài giọt lệ lòng thương bạn,
Căm giận quân thù đã tím gan.
Ông Oánh sinh thời là một người trung hậu ngay chính, ở đời này thật là ít có. Chẳng may vì duyên nghiệp mà phải cái nạn tai bay vạ gió. Thôi [tr3] thì cũng là một cách ông ấy trả nợ nước.Tôi muôn nhờ ông một tí việc, khi tôi đi, tôi còn một bản đánh máy tập Vũ trụ đại quân(19) gửi ông Oánh, nhờ ông thử hỏi nhà ông Oánh xem tập ấy có còn nữa không. Nếu còn, thì ông làm ơn giữ lấy cho tôi, kẻo công trình mất mấy năm trời mà mất đi, thì tiếc quá.
Nhờ ông nói với Khiêm, nhờ hắn đến qua chỗ nhà tôi ở Nhà Rượu(20), xem có ai coi giữ cái nhà đã bị đốt(21) đó không. Nếu có người coi, thì nhờ Khiêm thử vào trong nhà xem những sách vở có còn gì nữa, thì nhờ hắn nhặt đem về giữ lấy cho tôi. Còn cái nhà bên cạnh mà không hư hỏng lắm thì nhờ hắn xem có thể chữa sửa được không…- (ngưng trích đoạn rất ngắn còn lại vì quá dài – NN)