1.Dư luận …về "Vòng tay học trò" ..(DTL/NV)-2.Dỗ bệnh với đá vàng(QG/NV)-3.Nhớ về những lời ca cũ(Vũ Nam/NV)

Dư luận chung quanh ‘Vòng tay học trò’ và đời thường của nhân vật chính
Nguồn:nguoiviet.com-Friday, March 21, 2014

Du Tử Lê

(Tiếp theo)

 
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng. (Hình: NAG Trần Cao Lĩnh chụp)

Mặc dù căn cứ vào cuộc phỏng vấn Nguyễn Thị Hoàng dành cho nhà báo Tố Tâm ở tạp chí Ðất Mới, số 4 bộ 2, tháng 4, 1990, Việt Nam thì, cả hai tập thơ mà trang mạng Wikipedia liệt kê trong danh sách tác phẩm đã xuất bản, được bà nói rõ rằng:

“…Thơ chưa in thành tập, nhưng rải rác có đăng báo. Khởi đầu năm 1960 ở Bách Khoa và từ 1961-1962 thì ở tạp chí Văn. Nhưng khi những chương đầu tiên của Vòng Tay Học Trò được in ở Bách Khoa thì tiểu thuyết là chính, thơ chỉ còn là tô điểm thế mà.” (3)

 Nhưng, có dễ trước sau thi ca vẫn là “cây bài chủ,” hay ngọn hải đăng tâm hồn họ Nguyễn. Nên khi bước qua văn xuôi, ngay tự những trang viết thứ nhất của tiểu thuyết “Vòng Tay Học Trò,” bên cạnh sự hấp dẫn, lôi cuốn của cốt truyện chắt, chiết từ đời thật, tác giả vẫn có những đoạn tả cảnh, tình ắp đầy thi tính như:

“…Một tiếng chim hót lên đầu cành thông gần mái nhà. Trâm nhìn ra. Vòm trời xanh mênh mông in hình nét đồi cong thoai thoải, sáng rực nắng chiều. Một đám mây trắng sắp sửa nhô lên sau ngọn đồi thấp nhất. Hình ảnh của những buổi chiều yên tĩnh, cuộc đời cô quạnh, buồn lãng mạn và nên thơ thoáng qua trong trí Trâm. Nàng chợt vừa sợ vừa thích nỗi cô đơn hiện tại (…).

“Trâm đứng lên mở rộng cánh cửa kính. Mùi thơm quen thuộc của cỏ khô và đất mới xới, lẫn với mùi dâu chín dưới thung lũng thoảng theo gió bay lên làm Trâm tự nhiên ấm áp trong lòng, tưởng như đang đời đời yên ổn sống trên đất quê hương…” (Trích VTHT, chương 1) (4)

Hoặc một đoạn khác, ở chương 2, tác giả ghi lại, những “cảm nhận” về cậu học trò tên Minh, nhân vật sẽ sớm trở thành người yêu của cô giáo Trâm (biến thân của chính tác giả):

“…Trâm giấu nụ cười trong bàn tay vừa đưa lên che môi. Bây giờ, bọn học trò chăm chú vào công việc, không nhìn lên nàng nữa. Trâm tự do, dễ chịu, tha hồ nhìn xuống, quan sát từng đứa để ‘trả thù’ bị nhìn lúc mới vào. Vài đôi mắt nhìn ra cửa sổ. Trâm nghĩ, thế nào cũng có thông reo gió thổi. Có đôi mắt nhìn sững vào khoảng không hay trên vách tường trống trải. Có cặp mắt sáng rỡ nhìn lên như vừa bắt gặp một ý tưởng, một hình ảnh thần tiên nào đó đang chiếu vào khoảng tâm hồn u tối. Có cặp mặt đăm đăm nhìn xuống tờ giấy trắng như chờ mong những hàng chữ bỗng nhiên hiện hình theo phép lạ.

“Cuối cùng, Trâm nhìn xuống chỗ Minh ngồi. Cậu bé đang lơ đãng chống tay vào má nhìn lên phía nàng. Cây bút xoay tròn tinh nghịch trên mấy ngón tay trắng nhỏ. Nàng mỉm cười thật nhẹ như thầm nhắc, sao em không viết gì đi. Minh mỉm cười yên lặng. Nụ cười nửa đầm ấm bắt gặp vẻ quen thân trong xa lạ, nửa ngại ngùng bối rối muốn lẩn trốn, che giấu chính mình và những ý nghĩ mình trước đôi mắt dò xét và phán đoán của kẻ khác. Rồi đôi mắt Minh cúi xuống. Ngòi bút loay hoay trong tay, bây giờ bị cắn nhẹ giữa hai hàm răng đều và nhỏ. Minh vò một mẩu giấy nhỏ vứt xuống đất, giở trang giấy khác, nhưng không viết gì được. Trâm biết Minh muốn đứng lên, chạy bay ra khỏi phòng, chạy thật xa cái nhìn xoi mói của nàng. Nhưng Trâm cứ nhìn như kẻ đi săn nhìn con thú lúng túng tìm cách thoát thân khỏi cái bẫy của mình… (5)

Ðược biết “Vòng Tay Học Trò” của Nguyễn Thị Hoàng trước khi in thành sách, đã được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa, Saigon, 1964. Ngay khi còn ở dạng truyện đăng nhiều kỳ, VTHT cũng đã nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của giới trẻ thời điểm đó. Nhưng mãi tới năm 1966, tiểu thuyết này mới được in ra. Và đó mới là thời điểm “cơn bão VTHT” đạt tới đỉnh điểm cao nhất của hân hoan đón nhận và, cùng lúc cực lực lên án.

Giải thích về sự chậm trễ này, trong cuộc phỏng vấn dành cho Mai Ninh, họ Nguyễn cho biết:

“Bách khoa in mấy kỳ, thiên hạ xôn xao. Nhưng sau đó chuyển cảnh qua chồng con, bản thảo VTHT xếp lại. Ðến 66, một nhóm tìm kiếm VTHT, xuất bản. Tái bản 4 lần trong vòng mấy tháng. Sóng gió nổi lên từ mọi phía, vì những lý do và động lực khác nhau. 5 tờ báo, cùng nhất loạt lên tiếng phê phán, chỉ trích, tóm lại là chửi bới. Rất tiếc cuộc biển dâu cuốn trôi không còn một mảnh tài liệu nào, còn trí nhớ NTH thì chỉ gạn lọc lưu trữ những gì tốt đẹp. Hình như nhân danh hay đại diện phụ huynh học sinh, nhà trường gì đó có lên tiếng trong một bài báo. Không có những phản ứng trực tiếp tương tự như trong phim đối với cuốn truyện, còn gián tiếp thì không biết.

“Khi viết, với không phải viết cái gì đã sống, mà trên khung cảnh, sự kiện, nhân vật của khoảnh khắc thoáng qua “trong vai” cô giáo ấy, tăng giảm biến đổi để đúng vóc dáng một câu chuyện. Ðã không tính đến chuyện viết tiểu thuyết hay hình thành một tác phẩm với dụng ý, mục đích nào mà chỉ góp nhặt lại những mảnh vụn của một khúc đời đã vỡ.
“Thế mà nó trở thành tác phẩm, tác giả với hàng loạt những hệ quả sinh khắc liên hồi từ ấy…” (6)

Trước đấy, cũng trong cuộc phỏng vấn của nhà báo Tố Tâm, nhà văn Nguyễn Thị Hoàng nói:

“…Riêng về Vòng Tay Học Trò, nếu bảo đó là thực thì cũng không hẳn là thực mà bảo là không thực thì… cũng chẳng phải là thế. Dư luận trộn lẫn tiểu thuyết của mình với đời sống thật. Cũng vì thế mà có những tiếng ác ý lao xao về đời sống của mình. Cho nên chỉ có cách là… phải thản nhiên…” (7)

Tuy nhiên, trong một bài viết được phổ biến vào cuối năm 2012, tác giả loạt bài “Hồi Ức Một Ðời Người,” Nguyễn Ngọc Chính, cũng là bạn thân với người học trò tên Minh (tức Mai Tiến Thành ngoài đời), đã ghi lại như sau:

“…Tác giả (NTH) xác định một cách nửa vời về ‘Vòng Tay Học Trò’:… nếu bảo đó là thực thì cũng không hẳn là thực mà bảo là không thực thì… cũng chẳng phải là thế’. Như đã nói, những nhà văn nữ thường ‘tự thuật’ về cuộc đời mình và chính những kinh nghiệm bản thân khiến tác phẩm của họ dễ đi vào lòng người đọc. Dĩ nhiên việc ‘thêm mắm thêm muối’ còn tùy thuộc vào sự khéo léo của mỗi đầu bếp để có một món ăn ngon hay dở.”

“Vòng tay học trò là câu chuyện có thật tại trường Trần Hưng Ðạo Ðà Lạt giữa cô giáo đệ nhất cấp Nguyễn Thị Hoàng và cậu học sinh đệ nhị cấp Mai Tiến Thành. Tôi vốn là bạn học rất thân với Thành từ năm Ðệ Ngũ trên Ban Mê Thuột nên biết rõ chuyện tình của Thành. Tuy nhiên, những gì xảy ra ngoài đời thực có phần nào khác với Vòng tay học trò, đó là kỹ thuật ‘thêm mắm thêm muối’ của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng. Nói khác đi, phần hư cấu trong tiểu thuyết được giữ ở mức vừa phải, có thể chấp nhận được.”

“Hình như để giữ cho mối tình cô giáo-học trò thi vị hơn, tác giả đã để cho cuộc tình chấm dứt tại Sài Gòn và không đả động đến hậu quả của nó: một đứa con đã ra đời. Ðứa bé được đặt tên Mai Quỳnh Chi, giao cho gia đình Thành nuôi nấng tại Ban Mê Thuột và ngày nay đã trở thành một thiếu nữ sống tại nước ngoài. Mai Tiến Thành đã trở thành người thiên cổ tại Hoa Kỳ và câu chuyện tình làm nên tác phẩm rồi cũng đi vào quên lãng…” (8)

(Còn tiếp 1 kỳ)

Chú thích:
(3), (4), (5), (6), (7), (8) Nđd.

………………………………………..

Dỗ bệnh với đá vàng
Nguồn:nguoiviet.com-Wednesday, March 19, 2014(Nguồn tranh:dutule.com)

Quỳnh Giao

Từ sau Tết, người viết bị cảm triền miên và ngưng xuất hiện trong chương trình văn học nghệ thuật trên Người-Việt TV vì… hát chẳng ra lời. Ðang dưỡng bệnh bỗng nhớ đến chú Mai Thảo!

Trong tập thơ “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Ðền” do anh Ðỗ Ðình Tuân xuất bản năm xưa, Mai Thảo có bài thơ rất thấm cho những người nằm bệnh. Câu thơ của ông: “Gối tay lên bệnh nằm thanh thản, thành một đôi ta rất đá vàng” được bằng hữu và những người yêu thơ nhớ mãi!

Cả bài thơ còn có sự duyên dáng riêng, nên Quỳnh Giao lẩm nhẩm và lóc cóc gõ lại ở đây:

Dỗ Bệnh

Mỗi lần cơ thể gây thành chuyện
Ta lại cùng cơ thể chuyện trò
Dỗ nó chớ gây thành chuyện lớn
Nó nghĩ sao rồi nó lại cho!

Bệnh ở trong người thành bệnh bạn
Bệnh ở lâu dài thành bệnh thân
Gối tay lên bệnh nằm thanh thản
Thành một đôi ta rất đá vàng.

Ít ai lại chuyện trò với bệnh như với một người bạn thân, và lại còn dỗ dành cơ thể!

Nhưng thật ra, Mai Thảo là người đã… lừa được bệnh. Hoặc nói cho đúng hơn, ông đẩy lui bệnh nên chẳng còn bệnh tật gì hết. Những người bạn thân của ông trong giới y khoa đều có thể biết và kinh ngạc về chuyện này. Trong người hình như có cục u bướu gì đó, ông không chịu chữa chạy như người chí thiết là Hoài Bắc Phạm Ðình Chương. Nhiều người còn cho là ông diệt bệnh bằng… rượu vì ít năm sau chiếu điện lại thì chẳng còn thấy gì nữa.

Có khi nhà văn của chúng ta chẳng muốn sống nữa, thế thôi!

Với ông, có ba lẽ sống thiêng liêng nhất thì đều không còn. Quê hương đã mất, văn chương đã cạn, và bạn bè chí thân đều theo nhau ra đi, như Thanh Nam, Vũ Khắc Khoan hay Hoài Bắc. Vì vậy, ông chẳng còn thiết ăn và cơ thể hao mòn dần cho đến khi kiệt.

Ngọn đèn dầu đã cạn, chỉ còn cái bấc, được ông sưởi bằng rượu và đốt bằng khói thuốc.

Nhớ lại thì lâu lắm rồi, khi có hai vợ chồng người bạn từ miền Ðông qua chơi, chúng tôi mời nhau ra một tiệm ăn Nhật Bản và xuýt gây ra một “xì căng đan” vì Mai Thảo.

Ông cũng có một đĩa “sushi” như mọi người, nhưng cầm đũa gẩy gẩy ba cái rồi chê là rượu sake quá nhẹ. Ông châm điếu thuốc ngay trong tiệm trước sự bàng hoàng của mọi người! Chúng tôi liếc nhìn nhau và ôn tồn nhắc nhở.

Nhưng ngay lập tức một cô hầu bàn rất lịch sự đã tới bên cạnh thầm thì. Thưa ông, trong này không hút thuốc! Mai Thảo thản nhiên cắm điếu thuốc trên miếng Yellow Tail màu hồng rất tươi. Rồi khi người tiếp viên vừa quay đi thì ông đốt điếu khác.

Cứ như vậy, mươi phút sau thì đĩa cá tươi đã có hình thù của con dím. Toàn những mẩu thuốc hút dở cắm đầy trên đĩa…

Dĩ nhiên là chúng tôi phải trổ tài ngoại giao để xin lỗi người quản lý tiệm ăn và một đoàn tiếp viên đứng quanh bàn. Rồi năm người líu ríu kéo nhau ra cửa. Không một ai nỡ than một câu với người bạn đã mang tâm sự hay tâm bệnh được viết thành thơ:

“Những bạn bè mày chúng nó đã giết
Còn viết được ư, thằng sống sót?”

Thật ra, trong cõi lưu vong, Mai Thảo vẫn viết và ngày càng làm thơ nhiều hơn.

Ông viết trên tờ Ðất Mới của ông Vũ Ðức Vinh. Từ Seattle về đến Quận Cam này, ông dựng lại tờ Văn ngày xưa, với sự kín đáo hỗ trợ của Ðỗ Ngọc Yến. Dù bị bạn bè chế diễu là “sáng tinh mơ súc miệng bằng rượu,” ông giữ một kỷ luật đáng yêu là chăm sóc tờ báo và đích thân trả lời thư tín cho độc giả với sự chu đáo, cẩn trọng.

Bên dưới cái vẻ chán chường và những lời nói gây khó chịu cho nhiều người ở ngoài, Mai Thảo vẫn có sự thiết tha với văn chương. Cho đến khi kiệt sức, ông mới trao tờ báo cho Nguyễn Xuân Hoàng tiếp tục thêm được ít năm…

Khi có lời giã biệt bên huyệt, Võ Phiến phát biểu: “Ra đến ngoài này, trong hoàn cảnh rất khó khăn. Mai Thảo vẫn gắn bó với văn học. Ông làm cho cuộc đời chúng ta trở thành văn minh hơn…”

Chính lời nói đó càng khiến nhiều người trong chúng ta tiếp tục. Ðáng quý nhất là nhiều người tiếp tục dù ý thức được như Mai Thảo khi ông nhắc đến người bạn Bùi Giáng ở nhà: “Kẻ sĩ điên thế kỷ mù rồi!”

Ngồi trước cái máy, người viết này nhớ lại Mai Thảo và ghi lại sự thiết tha đó của ông. Mình sẽ phải lành bệnh, đá vàng là đấy. Ở ngoài kia, có người hai tay hai súng canh cửa: hai máy điện thoại di động để cảm ơn mọi lời thăm hỏi! Cũng là một lẽ đá vàng đấy!

………………………………………..

Nhớ về những lời ca cũ
Wednesday, March 19, 2014
Vũ Nam (Germany)

Tháng 10, 1980 gia đình chúng tôi và những người bạn đồng hành trong cuộc vượt biên nguy hiểm, cùng với gần 600 người vượt biên khác đã được tàu Cap Anamur Tây Đức cứu vớt ngoài biển Đông mang vào gửi ở trại tị nạn Palawan, Phi Luật Tân.

 

Một chiếc tàu vượt biên được tàu Cap Anamur cứu vớt. Nguồn hình: vuhuyduc.blogspot.com

Buổi trưa tàu chạy dọc theo đảo Palawan của miền tây nam nước Phi. Sóng biển khi tàu đi sát bờ không còn dữ dằn như hôm qua hôm kia, lúc tàu đang giữa biển. Trong cơn bão, dù nhỏ, nhưng tàu vẫn lắc lư, chòng chành, mặc dù đang chạy. Gió phất trên boong tàu, làm chúng tôi dù nằm sâu ở dưới lòng tàu cũng thấy chóng mặt. Thỉnh thoảng một cơn gió mạnh, một con sóng mạnh tạt những làn nước biển xuyên qua cầu thang, xuống tận nơi chỗ nằm của chúng tôi, cũng làm ướt áo. Thuyền trưởng báo trời đang có bão, tàu sẽ rời vùng bão, sẵn dịp mang người tị nạn vào gửi ở trại, không chạy lên chạy xuống, dọc theo ngoài hải phận Viêt Nam để cứu vớt người vượt biên như mấy hôm nay nữa.

Nghe được tin này chúng tôi thật mừng. Thật tình lúc đó, tôi không còn nghĩ đến những đồng hương khác đang lặn hụp trong bão tố giữa biển khơi với những chiếc ghe xuồng nhỏ của họ. Lo cho riêng bản thân và gia đình mình là suy nghĩ gần như của toàn xã hội trong những ngày khổ sau khi hòa bình đã lập lại! Và phần khác cũng vì đã mười ngày rồi, đông người trên tàu quá nên không còn đủ nước ngọt. Chuyện tắm giặt phải hoàn toàn bằng nước biển. Máy lọc nước mặn thành ngọt của tàu đủ để nấu thức ăn, nước uống. Mọi người chỉ còn trông sớm lên đảo để có nơi tắm giặt bằng nước ngọt.

Màu xanh lá cây rừng dọc bờ biển đảo Palawan bạt ngàn nằm trong màng sương biển. Những hạt mưa nhỏ vì ảnh hưởng của cơn bão ở biển Đông vẫn còn vây quanh, phủ trùm lên cảnh vật với màu trắng mỏng. Tàu đang chạy trong vùng vịnh, nên chỉ còn những con sóng nhỏ đánh vào hông tàu. Mọi người được phép lên boong tàu để xem cảnh vật. Quang cảnh trên đảo không có núi cao, không thấy những căn nhà, chỉ toàn thấy một màu xanh của những cánh rừng miền nhiệt đới. Chúng tôi đi tới lui trên tàu và rất phấn khởi để chuẩn bị lên đất liền, về trại tị nạn, sau khi tàu cập bến.

Rồi tàu cũng vào bến đậu. Lâu rồi tôi cũng không còn nhớ rõ, nhưng hình như là đoàn các em Hướng Đạo Sinh ra gần cầu thang tàu đứng thành hàng để chào đón chúng tôi. Những em thanh thiếu niên mặc áo quần đồng phục, áo vàng, quần xanh ngắn, khăn quàng cổ cũng màu xanh, đẹp. Mấy em được các anh chị mặc quần áo đồng phục, dài, tươm tất, hướng dẫn. Chúng tôi từ giã các bác sĩ, y tá, nhân viên trên tàu, rồi từng người rời tàu, xuống các ghe nhỏ để vào bờ, nơi đó đã có những chiếc xe buýt đang chờ để chở chúng tôi về trại.


Trại tị nạn Palawan. Hình chụp qua video tài liệu của Nguyễn Văn Hiếu trên vimeo.com

Đến trại trời đã bắt đầu tối, nên không thấy được toàn cảnh. Mọi người được đưa vào một phòng lớn, người hướng dẫn nói đó là hội trường. Mỗi người một chiếc chiếu, trải ra nằm tạm, sát nhau, trên nền xi-măng. Trên trần nhà một bóng đèn vàng, đủ ánh sáng để không dẫm đạp lên nhau khi phải đi lại trong đêm.

Hôm sau, khi chưa tỉnh ngủ hẳn đã nghe tiếng nhạc ‘đánh thức’ bằng một giai điệu rất rộn ràng. Điệu nhạc cứ lập đi lập lại. Làm ai không thức dậy nổi cũng phải dậy để ra phông-tên lấy nước rửa mặt sút miệng, chuẩn bị lãnh bánh mì ăn sáng.

Nhưng điệu nhạc ‘đánh thức’ vào buổi sáng này không làm tôi ngạc nhiên bằng những lời ca trong các bản nhạc sau đó được trại cho phát trong ngày, mà sau này hỏi ra tôi mới biết tựa và tác giả của nó như ‘Lời kinh đêm’, ‘Em vẫn mơ một ngày về’, ‘Một chút quà cho quê hương’, ‘Mời em về’, ‘Mưa Sài Gòn còn buồn không em’… của Việt Dzũng và Nguyệt Ánh, hai ca nhạc sĩ ra đi tị nạn từ năm 1975.

Lời ca bản nhạc làm tâm hồn những người mới lên đảo đắm chìm lại trong nỗi ký ức đã hằn dấu từ những năm 75 ở quê nhà: những tù tội, nhọc nhằn, đổ vỡ, tan thương, xót xa, gào khóc và khổ…, những tỉnh từ trầm luân này vẫn chưa nói hết nổi những đoạn đường khổ nhọc của người dân Việt Nam kể từ ngày 30 tháng tư, tôi nghĩ vậy. Lời là thế, nhưng hay hơn nữa phải nói là điệu nhạc. Có những điệu nhạc sao buồn quá, như bản ‘Một chút quà cho quê hương’, ‘Mưa Sài Gòn còn buồn không em’, ‘Lời kinh đêm’… Lời và nhạc hòa quyện lại với nhau trong những vần điệu buồn.

“Em gửi về cho anh dăm ba điếu thuốc, anh đốt cháy cuộc đời cháy mòn trên ngón tay, gửi về cho mẹ trăm chiếc kim may, mẹ may hộ con quê hương quá đọa đầy…..” Hay: “Mưa Sài Gòn, ôi mưa Sài Gòn bờ đại dương em còn chờ đón, ta ra đi mất lối quay về, rồi chiều mưa ai đón đưa em…”
                                                   
Nhưng có những điệu nhạc và lời ca sao hùng dũng quá, can trường quá, như trong bài ‘Em vẫn mơ một ngày về’: “Em vẫn mơ một ngày nào tay chúng ta chung một màu cờ trên con đường làng…”

Giọng ca Nguyệt Ánh, Việt Dzũng thật truyền cảm. Truyền cảm ở đây trong ý nghĩa uất nghẹn, đau thương trong tình yêu quê hương đất nước, tình yêu thương những thành phố, con người còn ở lại VN, con người nằm dưới lòng biển sâu, con người tấp giạt vào bờ đất Thái, Phi, Indo. với ‘đong đầy nước mắt’. Và truyền cảm trong niềm tin yêu hy vọng cho tương lai đất nước, chứ không phải là nghĩa truyền cảm thường tình của tình yêu trai gái.


Việt Dzũng- Nguyệt Ánh – Quốc Hận 30-4 tại Oregon năm 1999. Nguồn hình: tienggoicongdan.com

Và đặc biệt sau cùng là bản nhạc Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi, cùng tất cả người Việt tị nạn trong trại, ra đứng làm lễ chào quốc kỳ đầu tiên do trại tị nạn tổ chức vào buổi sáng đầu tuần, sau ngày đặt chân lên đảo:”Này công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi, đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống…..”, cùng với ngọn cờ vàng ba sọc đỏ từ từ kéo lên, tung bay trong làn gió biển, làm lòng tôi rúng động, ngập tràn niềm thương cảm, nhung nhớ cho màu cờ, tiếng ca từ bản nhạc, mà đã năm năm qua tôi không một lần thấy và nghe được khi còn ở Việt Nam.

Trải qua những ngày khổ cực ở quê nhà, hãi hùng tại bờ biển trong những đêm vượt biên, hôm nay đứng chào cờ và hát quốc ca VNCH trên mảnh đất xa lạ Phi, dưới ánh nắng ấm áp, chan hòa, mùi hương biển của thành phố Puerto Princesa trên đảo Palawan, hằng trăm con người tị nạn VN đứng yên lặng, trầm buồn để nghĩ về thân phận thuyền nhân của thời hiện tại.

Rồi cứ mỗi ngày qua, tiếng nhạc đánh thức, tiếng ca Việt Dzũng, Nguyệt Ánh cứ vang lên trong trại. Tiếng ca hối thúc, kêu gào, tiếng ca mang niềm tin yêu lại cho con người, hòa lẫn với con sóng biển vỗ về đập vào bờ của trại tị nạn, mỗi ngày, mỗi tuần, đã trở thành âm thanh thân yêu, quen thuộc.

Có những buổi chiều tôi đi dạo dọc theo bờ biển của thành phố này, đi xa khỏi trại, đi trên những dải cát trắng, dưới những hàng dừa, nhìn những người Phi chạy bộ thể thao dọc theo bờ biển, nhìn ra xa những con chim biển, một cảm giác nhớ nhung về nơi làng quê tôi sinh ra, cũng biển, hiện về, nhưng lập tức phải cố quên ngay vì nơi làng quê đó, những bờ biển đó, hôm nay bạo lực dãy đầy, mà tôi đã từng chứng kiến cách đây không lâu, khi những người công an, cán bộ địa phương đã đối xử như thế nào với những người vượt biển, khi ghe họ bị bão hay hư máy, buộc phải tấp vào nơi bờ biển quê tôi mong thoát qua cái chết giữa biển, nhưng để rồi phải hứng chịu những trù dập, đánh đập ngay tại bãi biển của quê hương VN mình. Cũng như tôi đã từng nghe một phụ nữ lai Tàu, trên tay đang ẵm con, đã kể cho tôi ghe câu chuyện hãi hùng về chuyến ghe ra đi „bán chính thức“ của chị. Khi ghe vừa tấp vào một làng làm biển, cạnh làng tôi:”Ghe vừa gần ra đến hải phận thì bị phá nước, nước vô đầy ghe. Họ thu vàng nhưng cho đi trên chiếc ghe sắp mục! May mà có cá ông đưa vào bờ!”.

May mắn tôi và gia đình đã vượt thóat ra khỏi nước cũng ngay tại bãi biển quê nhà, mà không phải gặp cảnh hãi hùng, tù tội, như các anh chị em thiếu may mắn khác.

Sau một tháng ở Palawan, chúng tôi được đưa về trại tị nạn Bataan. Chín tháng dài ở đây tôi không một lần nghe lại được nhạc của Nguyệt Ánh, Việt Dzũng.  Ở miền rừng núi nơi đây chúng tôi chỉ còn nghe tiếng mưa rơi, tiếng suối reo thay cho lời ca tiếng hát.

Sau này, khi đã định cư ở Đức, tôi mới lại được nghe lời nhạc tiếng ca của Nguyệt Ánh, Việt Dzũng, từ chiếc máy cassette và tiếp đó là những bản nhạc viết về đời tị nạn rất hay như ‘Sài Gòn niềm nhớ không tên”, như “Sài Gòn ơi ta có ngờ đâu rằng, một lần đi là một lần vĩnh biệt, một lần đi là ta mất nhau rồi, một lần đi là mãi mãi chia xa… ” Nghe thật nhức nhối.

Nhưng cuộc sống mới ở xứ người, những đứa con tiếp tục lần lượt ra đời, việc học nghề nghiệp. công ăn việc làm…. Bao việc đó đã làm cho tôi hầu như dần quên một thú vui: nghe nhạc.

Thú thật, nhiều tháng không nghe nhạc một lần! Không những không còn nghe những bản nhạc đấu tranh của Việt Dzũng, Nguyệt Ánh, mà ngay cả những bản tình ca dễ thương mà tôi thích nghe như ‚Hạ trắng’, ‚Diễm xưa’, hay những tình ca quê hương, tình ca người lính như ‘Khúc ca ngày mùa’, ‘Chuyện một chiếc cầu đã gãy’, ‘Trên bốn vùng chiến thuật’, ‘Rừng lá thấp’… bao tháng miệt mài tôi vẫn không một lần được nghe. May mắn là vào dịp có Tết Nguyên Đán, khi các hội đoàn tổ chức gặp gỡ, văn nghệ đón xuân giữa mùa đông xứ người, đến, tôi mới nghe lại được những bản nhạc quê hương thân yêu này. Lòng chùng xuống trong điệu nhạc, lời ca.

Chính những lời ca tiếng hát này đã làm tâm hồn thanh thiếu niên chúng tôi ngày trước trở nên…hiền. Tôi có ý nghĩ như vậy. Hàng ngàn lời ca trong hằng trăm bài hát đều nói lên tình yêu. Yêu trong tuổi học trò …”Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn, chín mươi ngày qua chứa chan tình thương”… Tình yêu trong thời chinh chiến… “Tôi có người yêu tuổi ngọc vừa tròn vì chinh chiến ngược chưa về thăm một lần….”; “Về đây bên nhau ta nối lại tình thương…” Và còn biết bao nhiều là lời ca hiền hậu đầy ân tình.

Bây giờ, nhìn về xã hội VN, sao ai cũng nói trẻ em bây giờ ngỗ nghịch quá, ai cũng than sao thanh niên bây giờ dữ quá, từ một cái nhìn, một câu nói cũng có thể đâm chém nhau; ngay cả các cô nữ sinh 14, 15 tuổi cũng có thể ôm đầu đánh nhau ngoài đường! Lỗi tại ai, chắc ai ai cũng biết! Với rất nhiều lý do.

Bao giờ con cháu chúng ta không còn nghe những câu hát như “thề phanh thây uống máu quân thù”, những câu thơ như “giết giết nữa bàn tay không mệt mỏi”, và khi các giai thoại nhạc quê hương ngày xưa trở lại thịnh hành, phổ biến, để mỗi con em đều có thể thuộc lòng, ca lên, có lẽ lúc đó lớp trẻ mới lớn của người Việt trong nước sẽ từ từ hiền hậu lại. Tôi tin chắc như vậy.

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics