1.Ký ức mùa xuân(RFA)2.Bưởi tay Phật:siêu độc,lạ-3.Mùa đông trên biên giới Việt-Lào(RFA)4..Lời khen chê & MORE

Ký ức mùa Xuân
Nguồn:RFA- Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
2015-01-12

ky uc.jpeg1
Một chiếc tàu vượt biển tìm tự do.
File photo

Mùa Xuân , Tình Yêu và Lao Tù

Một đoàn người lê bước theo sườn đồi thoai thoải tiến về hướng rừng già trước mặt.

Buổi sáng, mặt trời chưa ghé mắt trong miền thung lũng, nhưng ánh nắng đã nhuộm vàng trên đỉnh núi cao. Mây trắng viền quanh cánh rừng như chiếc khăn tang chít hững hờ trên đầu người quả phụ. Rừng mang màu tím ngắt. Chừng như đêm đen quỉ quái còn đang rình rập nơi nầy.

Ðoàn người âm thầm di động như loài rắn đang trườn mình xuyên qua dãy đồi còn đọng sương đêm. Không một tiếng người ! Không một tiếng chim ! Chỉ còn nghe vang động bước chân và tiếng lá xạc xào quất vào chân người. Chân người ? Vâng, những đôi chân tưởng chừng không còn là chân người nữa ! Như những cành cây khô khẳng khiu được bọc bằng lớp da người vàng tái, nhăn nhúm. Những đôi chân không còn sinh lực, bước đi xiêu vẹo sau bao tháng ngày đói khát cơm rau ! Những đôi chân của một thời ngang dọc, vào sinh ra tử, đã từng đạp nát cỏ cây, làm khiếp vía giặc thù ! Những đôi chân đã từng di hành khắp bốn vùng chiến thuật, xuyên thủng Trường Sơn và vượt cánh sắt tung hoành bên kia trời biên giới !

Ðoàn tù lầm lũi bước đi, đầu họ cúi xuống với cặp mắt không hồn. Chẳng một ai muốn ngước nhìn bầu trời trong xanh của buổi ban mai sắp vào Xuân. Trong đầu mỗi người tù chỉ còn choáng ngợp nỗi kinh khiếp của một ngày lao động khổ sai đang tới !

Ðoàn tù chậm chạp bò ngược lên đỉnh đồi cao. Những thân hình gầy guộc, gẫy gập, run rẩy dưới cái lạnh cắt da của mùa Ðông nơi được mệnh danh : “Chiếc Nôi Của Vùng Trời Ðịa Ngục.” Họ mặc phong phanh bộ áo quần tù, vá chằng vá đụp lên nhau bằng các loại vải đủ màu.

Thế đó, em yêu. Một ngày như mọi ngày, người tù đã phải luôn luôn đánh vật với cơn lạnh của trời, buốt rát thịt da, làm se thắt tim gan, đánh vật với nỗi nhọc nhằn suốt ba ngàn ngày lao động! Lần đến thăm trại tập trung đầu tiên, em và những thân nhân của tù đã để dòng nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt mình khi trông thấy đoàn tù rách bươm, xơ xác lảo đảo đi về trại tù sau một ngày lao động rã rời ! Ôi, những giọt nước mắt như chất cường toan làm nát lòng những “anh hùng thất thế !”

Và anh đã giấu dòng lệ xót thương cho vợ con ngoài đời cũng nhọc nhằn đói rách khổ đau. Có khác gì nhau : “Hai cảnh đời cùng chung cảnh ngộ tù cả nước’’. Ðàn con của chúng mình bây giờ nheo nhóc đói cơm. Bao năm tháng tảo tần nuôi con, giờ thân em hao mòn xanh xao, gầy guộc. Ðôi mắt đen tuyền, long lanh của thuở ban đầu đã dìu anh vào cơn say tình chất ngất đam mê, nay chỉ còn để lại quầng sâu. Nụ cười rạng rỡ cùng đôi má lúm đồng tiền ngày nào mũm mĩm cho anh một thời ngự đỉnh tháp ngà hạnh phúc giờ chỉ còn là hai hố trũng sâu trên đôi má nhăn nheo tiều tụy.

Tuổi thanh xuân ngày ấy có khi nào em quên lo nghĩ tới chồng trong những lúc trận mạc! Hàng đêm lắng nghe từng tiếng súng, khẩn cầu ơn trên che chở cho người yêu đang tắm mình trong vùng máu lửa.

Chinh chiến tàn rồi, mà nước mắt mãi còn rơi. Em lại tiếp tục khốn khổ với chuỗi ngày dài làm kiếp thân cò lận đận “một nắng hai sương’’, vượt cả rừng cao cách trở, những con đường đèo heo- hút, hiểm-nguy để thăm nuôi chồng.

Ôi, Tình yêu ! Những năm tháng trong lao tù mới gạn lọc được tình yêu và là thước đo được lòng dạ con người !

Mùa xuân đã về đâu đó, tận miền xa. Hương xuân ngại ngùng đối mặt với những người tù khổ sai. Ðã gần mười mùa xuân rồi em nhỉ ! Xuân trong tù đốt cháy cả niềm tin và mơ ước. Tro tàn hòa vào máu, nhập vào tim làm chai cứng tâm hồn. Bao ước vọng ngày xưa, qua một cơn sóng đời nghiệt ngã, đập vỡ vụn đến tận cùng cuộc sống

Em đã khóc trọn mười mùa Xuân cô đơn. Mùa Xuân của hung thần lột trần trụi con người cả thể xác lẫn tâm hồn. Mùa Xuân ngấm đầy chất dung dịch phân hủy nhân tính loài người biến thái thành cơ năng loài thú. Mùa xuân phá vỡ lớp da mịn màng tươi trẻ trên khuôn mặt em ngày nào. Mùa xuân như loài chuột ùa đến gậm nhấm, rúc rỉa xác thân anh còn trơ lại bộ xương và lớp da vàng tái. Những mùa xuân tuần tự ra đi đã để lại cho anh màu tóc xám tro, mang đi những sợi tóc đen tuyền của một thời kiếm cung lẫm liệt!

Mùa xuân không về nơi rừng già heo hút. Và mùa xuân thật sự đã chết trong lòng người tù cải tạo.

Xuân màu đỏ máu mang hồn quỷ dữ nấp trong nòng súng AK luôn chực chờ sau lưng đoàn người chiến bại. Chỉ một thoáng động bất ngờ, vô nghĩa, một trượt chân tách rời khỏi đoàn tù đang di chuyển trong màn đêm là cũng đủ cho những tên công an bảo vệ kết liễu mạng sống người tù ! Nào Lập, nào Huệ, Bình, Ngọc, Hải… họ đã vượt thoát tìm cái chết cho tự do đời đời. Ở đây, chỉ biết tìm tự do trong cái chết hoặc tìm cái chết để được tự do !

Bên kia dòng suối cuối trại tù, em hãy nhìn về hướng đó. Bạn tù và chiến hữu của anh đã miên viễn nằm xuống nơi triền đồi đổ dốc về khu rừng sắn bao la để một ngày nào đó, những xác thân ấy rã mục biến thành thức ăn cho loài cây cỏ vô tri !

Ngày xưa anh ra đi là để gìn giữ trái mộng của đời cho anh, cho em, cho bạn bè và cho cả thế hệ mai sau. Trái mộng của đời đang ngọt ngào, rực rỡ , cơn gió Tây bỗng xoay chiều quái ác. Cơn lốc bạo hành phá đổ bao ước mơ, và trái mộng đời rơi rụng.

Anh mang nỗi đau một đời !

Mùa Xuân, Tình Yêu và Biển Cả

Qua chín mùa xuân trong chốn lao tù nghiệt ngã, nay anh trở về với gia đình trong những ngày sắp vào Xuân.

Nhìn hai con thân gầy cằn cỗi, màu da nhợt nhạt khiến lòng anh buồn tê tái. Bé Huy nhìn cha với đôi mắt hững hờ xa lạ. Biết nói làm sao hỡi em. Năm tháng mỏi mòn cạn kiệt. Thời gian kéo lê tuổi đời như thêm phần tư thế kỷ già nua. Bàn tay em mũm mĩm mượt mà thon búp, giờ đây như đốt tre còi khô đét sần sùi những mụt vỡ phồng chai.

Lũ con vất vưởng trong chốn học đường chất đầy chai lọ, ni-lông, giấy vụn, kết quả của kế hoạch nhỏ, kế hoạch to. Con bớt cả phần ăn ít ỏi của mình chắt chiu con gà mái của trường, nuôi lấy điểm cho từng tam cá nguyệt. Một gà con được nở ra là con mình mang niềm tự hào sẽ trở thành “Học Sinh Tiên Tiến”. Mười kí giấy vụn là đạt danh hiệu “Cháu Ngoan Bác Hồ”. Ôi, còn đâu là tuổi thơ vô tư, trong sáng. Chiếc khăn quàng đỏ dối gạt cả tương lai !

Em không muốn con lớn lên giữa “Thiên đường mù quáng”, giấu mặt gian ngoa dưới những khẩu hiệu lập lờ! Hộ khẩu cột chân, khóa miệng người. Tem phiếu, khẩu phần trói chặt bao tử toàn dân. Loa phóng thanh đêm ngày gào thét: “Xã Hội Chủ nghĩa Ưu việt muôn năm !”

Thì thầm bên tai anh giữa đêm đông lạnh giá : “Chúng mình sẽ ra đi trong đêm trừ tịch.”

Anh sững sờ : “Vàng đâu, đủ cho gia đình bốn người vượt biển ?’’ Em bịt miệng anh bằng nụ hôn xúc động, ấm niềm tin yêu. Chân anh chưa ngấm đất quê nhà sau bao năm trời xa cách, nơi chúng mình trải dài những kỷ niệm êm đềm, giờ đành rời xa sao ?

Phút Giao Thừa vừa điểm. Ðài phát thanh mở oang oang thơ chúc Tết, bài văn tiền chế từ thuở nào nay vẫn còn rên rỉ : “Thắng giặc Mỹ, ta xây dựng hơn mười ngày nay !’’đã nướng bầy “cháu ngoan Bác Hồ”trong trận đỏ lửa Mậu Thân. Chiếc thuyền con hai lốc máy âm thầm tách bến chở đoàn người rời bỏ quê hương.

Xin giã từ “Hà Nội chiếc nôi của nhân loại.” Chiếc nôi đã ru dân miền Bắc Việt Nam suốt những năm dài ngủ say bằng những câu thần chú giáo điều! Nôi ru tuổi trẻ Việt Nam đắm chìm trong u tối, mê muội biến thành những con thiêu thân trong các trận biển người. Nôi ru giới trí thức lú lẫn trong giấc dài cô miên. Chiếc nôi được phủ lên lớp màn thưa che mắt thế giới bằng chiêu bài “Giải phóng dân tộc’’. Nôi ru cả người dân Mỹ đã vô tâm đứng lên chống lại con em mình đang chiến đấu bảo vệ thành trì thế giới tự do.

Ghe đã qua khỏi hải phận quốc tế rồi ! Ðoàn người reo hò quên cả cơn mệt nhọc, quên cả những cơn sóng nhồi co thắt ruột gan.

Vầng dương bắt đầu ló dạng. Chân trời rực sáng bình minh ! Những gương mặt xanh xao giờ đây cũng hồng lên dưới ánh nắng giao mùa. Xin chào ngày Xuân mới rạng rỡ trên mặt biển bao la, ngào ngạt mùi muối mặn thay mùi rượu mừng Xuân bay tràn trong gió lộng đại dương. Xin chúc mừng mọi người lên một tuổi mới. Tuổi đầu đời của cuộc sống tự do !

Anh hôn lên đôi môi em khô khốc đầy muối mặn. Em co ro giữa hai đứa con say vùi. Nước mắt hay nước biển chảy ràn rụa trên khuôn mặt em ? Nước mắt vui mừng cuộc sống mới đang chực chờ phía trước, hay nước mắt của nỗi đau vĩnh biệt quê hương !?

Thuyền lướt nhanh, thêm một ngày và một đêm hi vọng. Chợt một cụm mây đen xuất hiện từ phía chân trời xa. Cụm mây biến hình đổi dạng vươn lên như những cánh tay với lưỡi hái tử thần !

Sau đợt “gió thốc mùa Xuân 1975” chiếc nôi Hà Nội đã lộ nguyên hình mang thần chết gieo rắc khắp rừng núi ruộng đồng, săn đuổi cả trên mặt Biển Ðông. “Yêu Tổ quốc là yêu Xã Hội Chủ Nghĩa”. Bạo quyền đồng hóa tổ quốc với chủ thuyết ngoại lai. Mọi người ùn ùn bỏ tổ quốc ra đi, bởi toàn dân ghê tởm cái chủ thuyết xem mạng người như con vật.

Cơn bão lốc bỗng chốc thổi qua. Những đợt sóng tàn nhẫn cuốn phăng tất cả chướng ngại trên đường đi. Con thuyền mỏng mảnh không đủ sức chống chọi với cơn giận dữ của đất trời. Thuyền vỡ nát đánh chìm toàn thể đoàn người.

Ðợt sóng đầu tiên đã hất tung út Huy bay ra khỏi khoang thuyền. Anh quờ quạng trong sóng nước mịt mùng nắm được tay em và bé Vân Trang. Anh chụp một mảnh ván thuyền bảo em bấu chặt vào đó. Tay anh bồng con, tay kia giữ mảnh ván bồng bềnh trên sóng. Tấm ván là thần hộ mệnh và tấm ván chỉ đủ sức nâng hai mạng người. Em thì thào bên tai: “Anh ơi, anh phải sống, sống để lo tương lai cho con chúng mình’’.

“ Không. Ðừng nói thế em ! cả hai đứa mình cần phải sống. Cơn lốc đã tan rồi, em nhìn kìa, trời bắt đầu chói nắng. Hãy gắng gượng được phút nào hay phút ấy.”

“Anh ơi, hãy thế vào chỗ em trên chiếc ván nầy. Em nhường cho anh phần sống mong manh. Hồn em sẽ ở mãi bên anh, xin Phật Trời phò hộ cho anh và con là phần máu thịt của em. Em đã kiệt sức rồi”.

“ Không, không ! anh van em.”…

Anh vừa đặt bé Vân Trang nằm yên trên tấm ván và quay người dự tính nâng em lên thì hỡi ôi, em đã buông tay rồi. Con sóng vô tình vùi lấp xác thân em. Nỗi bàng hoàng bóp thắt trái tim anh, ngất lịm.

Anh tỉnh dậy trong khoang tàu của người Đức. Bé Vân Trang nằm giường bên kia hơi thở còn thoi thóp.

Tình yêu . Ôi, em là Thiên Thần của Tình Yêu. Cả đời em đã dâng hiến tình yêu trong cuộc sống và trước khi về cõi chết !

Chúng mình ra đi cho nhau và cho con. Ánh sáng Tự Do mới ló dạng ở cuối chân trời, vì sức mạnh tình yêu em đã nhường phần sống cho chồng. Em nằm sâu trong lòng biển mà hồn mãi quanh quẩn bên anh. Suốt đời anh mang niềm u uất…

Anh cúi đầu cầu nguyện.

……………………………………………………………………………

Fwd: Bưởi tay Phật siêu độc, lạ
Kim Vu to:….,me

Buoi tay Phat.jpg1

Trái bưởi có hình bàn tay Phật rất mềm mại.

Độc, lạ, đẹp mắt, từ ngày 17/11, những trái bưởi lễ có hình dáng bàn tay Phật chính thức xuất hiện tại 4 ngôi chùa phía Nam và 4 ngôi chùa ở phía Bắc.
>> Sau 3 năm thử nghiệm, những người trồng cây hạnh phúc vì đã hoàn thành sản phẩm mà họ tâm niệm.
>> 3 năm mày mò thử nghiệm
>> Sản phẩm “chắp tay vái Phật” là trái bưởi Năm Roi không hạt được một công ty áp dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại tạo hình 3D. Trên thân quả có hình 2 bàn tay ốp vào. Khi quả được 1,5-2 tháng tuổi, phần trên thân quả chưa hiện bình thanh tịnh, nhưng từ tháng thứ 3 trở đi, hình dáng chiếc bình hiện ra ngày càng rõ.
>> Để tạo ra loại bưởi có hình dáng bàn tay Phật, nhà sản xuất đã mất 3 năm đầu tư, nghiên cứu và thử nghiệm. Sau mỗi lần thất bại, người trồng lại phải kiên nhẫn đợi mùa bưởi tới, tức 6 tháng sau, mới có thể thử nghiệm lại. Hầu hết công nghệ, khuôn tại hình loại bưởi này đều nhập từ Thái Lan với giá thành tương đối cao.

buoi tay Phat 2
Gần như 100% quả bưởi đều có chung một mẫu, trọng lượng và màu sắc như nhau.

>> Dịp Tết âm lịch năm nay, công ty này sẽ ra mắt thị trường những sản phẩm đầu tiên. Hiện mặt hàng này chưa bán mà mới cúng tiến tới 8 chùa, gồm các chùa Vĩnh Nghiêm, Phổ Quang, Đại Giát, Ngọc Hoàng ở phía Nam; Quán Sứ, phủ Tây Hồ, đình Ứng Thiên, chùa Phúc Khánh ở Hà Nội.
>> Dự kiến, giá bán bưởi dịp Tết sẽ được công bố vào ngày 20/12 tới. Khoảng 1.000 tới 3.000 quả bưởi được bán ra dịp này. Tuy nhiên, nhà sản xuất cũng khẳng định, số lượng bưởi lễ ít nên giá sẽ rất khác so với sản xuất đại trà.
>> Theo nhà sản xuất, hình dáng của bưởi tượng trưng đôi bàn ay nâng niu bình thanh tịnh. Bình này biểu trưng cho lòng từ bi của Bồ Tát, chan chứa tình thương và và làm dịu đi nỗi đau của chúng sanh.
>> Các nhà vườn đã lên kế hoạch từ tháng 7/2015, bưởi lễ sẽ được bán hàng ngày tại hầu hết thị trường, mức giá khi đó chỉ cạnh tranh với giá quả Phật thủ. Trung bình mỗi năm, sẽ có từ 200.000 tới 400.000 trái bưởi lễ được tung ra thị trường. Đây là mức giá nhiều người có thể tiếp cận được và để ngăn chặn tình trạng “ăn cắp” mẫu hoặc cho ra sản phẩm có hình dáng tương tự, gây nhầm lẫn.
>> Đại diện nhà vườn sản xuất, bà Trần Thị Ngọc Loan cho biết, do sản xuất số lượng lớn, dự kiến từ năm 2015 sẽ bán vào các ngày 25 âm lịch hàng tháng nên công ty không có một vùng sản xuất tập trung. Hiện loại bưởi lễ này được trồng tại 4 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, Sóc Trăng, Trà Vinh, Hậu Giang, với tổng diện tích 160ha. Các vườn bưởi đều có diện tích trên 1ha, chủ nhân có kinh nghiệm, kỹ thuật chăm sóc loại quả này.
>> Độc, đẹp, ngon, sạch, giá bình dân
>> Độc là điều đầu tiên dễ thấy ở bưởi bàn tay Phật. So với bưởi hồ lô, dưa hấu thỏi vàng, dưa vuông… thì việc tạo hình 2 bàn tay có thể là cầu kì, yêu cầu tính kĩ thuật hơn rất nhiều. Hiện trên thị trường, đây là sản phẩm duy nhất có hình này.
– 2-Trái bưởi có hình bàn tay Phật rất mềm mại.(hình trên cùng)

buoi tay Phat 3.jpg1
>> – 3- Vỏ khuôn không ngăn ánh sáng mặt trời nên màu xanh mướt, nhẵn, bóng là màu sắc của tất cả các sản phẩm.
>> Đẹp là điểm nhận xét của nhiều người khi nhìn thấy trái bưởi. Hai bàn tay ốp trên thân quả không hề thô cứng, sắc cạnh theo kiểu công nghiệp mà ngược lại, từng ngón tay mềm mại, phân bố hệt như đôi bàn tay thật. Quả bưởi được bọc ngay từ khi kết trái nên vỏ của nó không có bất cứ tì vết gì. Vỏ khuôn không ngăn ánh sáng mặt trời nên màu xanh mướt, nhẵn, bóng là màu sắc của tất cả các sản phẩm. Khi tung ra thị trường, gần như 100% quả đều có chung một mẫu, trọng lượng và màu sắc như nhau.
>> Ngon là điều hiếm thấy ở các sản phẩm chú trọng vỏ ngoài. Nhà sản xuất muốn người thụ lộc được ăn trái bưởi Năm Roi không hạt loại một chứ không phải loại “hàng dạt” trên thị trường. Tham vọng của nhà sản xuất là xâm nhập thị trường các nước đạo Phật và xa hơn, đây sẽ là đại sứ thương hiệu, đại diện cho bưởi Việt Nam để xuất khẩu ra toàn thế giới.
>> Giá bình dân là khẳng định của nhà sản xuất khi sản phẩm ra thị trường một cách đại trà. Mặc dù công nghệ tạo dáng hình tay Phật chiếm tới 40% chi phí sản xuất nhưng mức giá bưởi lễ Cát Tường chỉ để cạnh tranh với Phật thủ và nhỉnh hơn giá bưởi Năm Roi.
>> Sạch cũng là một trong các điều kiện tiên quyết khi tạo ra sản phẩm bưởi lễ có dáng hình bàn tay Phật. Ngay từ khi ra trái, bưởi đã được bọc bằng một nguyên liệu thân thiện tránh sâu, côn trùng và ít bị bệnh. Trên vỏ sản phẩm, nhà sản xuất cam kết “không chất bảo quản”.
>> Theo Yên Ba (Infonet.vn)
>> __._,_.___
>> Posted by: dogiap

…………………………………………..

Mùa Đông trên biên giới Việt – Lào
Nguồn:RFA – Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-12-30

bien gioi V-L.jpeg1

Người Ka-Pô đi bán bắp chuối rừng.
RFA photo

Mùa Đông trên thị trấn núi Lao Bảo, Khe Sanh, Hướng Hóa, Quảng Trị, có thể nói đây là mùa khắc nghiệt nhất đối với người nghèo, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số Pa Kô, Vân Kiều. Nước trên sông Sê Pôn dâng cao và chảy xiết, mọi lưu thông của người trong bản với thị trấn bị gián đoạn, việc đi hái măng rừng, bắp chuối rừng gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm, lương thực dự trữ hầu như không có. Thật là buồn khi phải nói rằng đây là mùa đói khổ của những đồng bào thiểu số và họ tự hào một cách mù quáng về sự đói khổ vĩ đại của họ.

Đời sống dần thụt lùi

Ông Hồ Nhật Thành, 50 tuổi, người Pa Kô, sống ở Lao Bảo, chia sẻ: “Đời sống bây giờ khó lắm, làm chi mà có để ăn. Ngày xưa mình theo cụ Hồ có cụ Hồ che chở. Giờ cụ mất rồi lấy ai che chở. Người PaKô, Vân Kiều giờ đều họ Hồ, không biết ai bà con của mình, tổ tiên của mình, cứ thế mà lấy nhau. Khó lắm! Mọi cái khó lắm, bây giờ muốn lấy một cây gỗ rừng cũng không được, của nhà nước, ý đảng lòng dân. Mình vào rừng đốn gỗ phải hỏi mà biết hỏi ai, đốn về mà không hợp ý đảng là nhà nước nó bắt đi mất, coi như mất.”

Theo ông Thành, mùa Đông năm nào cũng như năm nào, đồng bào của ông phải sống trong đói rét, và thường thì đây là mùa có tang ma nhiều nhất bởi người già không chịu nổi cái lạnh, phải ra đi. Mùa này tuy nhiều chuyện tang tóc bởi thiếu ăn nhưng với đồng bào Vân Kiều, đây là mùa hạnh phúc. Bởi những người già được từ giã cõi người đầy rối rắm, đói khổ để về với Trời, với Bác.

Vì sao lại về với Trời, với Bác là một hạnh phúc? Ông Thành trả lời rằng trong thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, người Vân Kiều đã lột từng tấm tôn, bán từng cây cột gỗ lim, gỗ huỳnh đàn, gỗ sến hay gỗ kiền kiền để mua lương thực, góp gạo nuôi bộ đội.

Và cũng trong thời gian kháng chiến, bộ đội đã kết nghĩa với đồng bào, bác Hồ nhận đồng bào làm con nuôi, mọi người Vân Kiều, Pa Kô lấy họ Hồ làm họ của mình. Nhìn chung, đồng bào thiểu số ở vùng núi phía Tây Quảng Trị và Thừa Thiên Huế trên dãy Trường Sơn trở thành con của bác Hồ, xem bác Hồ là vị cha già của mình và tôn thờ bác Hồ trên cả ông bà, tổ tiên.

Để đáp lại ơn nghĩa được làm con kết nghĩa của bác Hồ, đồng bào Vân Kiều, Pa Kô nguyện hết lòng phục vụ đảng, phục vụ bác và tự xem mình là những chiến binh bảo vệ đảng, bảo vệ bác. Chính nhờ lòng nhiệt thành cũng như niềm tin của đồng bào thiểu số, khu vực Khe Sanh, Hướng Hóa mau chóng trở thành cái nôi của Cộng sản nằm vùng trong cuộc chiến Nam – Bắc Việt Nam.

Mặc dù địa phận của Bắc Việt nằm về phía Bắc vĩ tuyến 17, bên kia cầu Hiền Lương nhưng nhờ vào những quan hệ kết nghĩa thời kháng chiến chống Pháp, Khe Sanh, Hướng Hóa dễ dàng thành cái rốn khói lửa bởi lực lượng Việt Cộng nằm vùng dày đặc nhờ vào sự che chở đùm bọc và tiếp tay của đồng bào Pa Kô, Vân Kiều ở đây.

bien gioi V-L 2
Em bé Vân Kiều chăn trâu. RFA photo

Chiến trận Khe Sanh Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 xãy ra, quân Cộng sản tấn công ồ ạt và bất ngờ ngay trên địa phận thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa đều nhờ công của đồng bào Pa Kô, Vân Kiều. Và, với đồng bào Pa Kô, Vân Kiều, đảng và bác Hồ muôn đời là thần tượng, là sao sáng soi đường, họ sẵn sàng chết cho bác Hồ và đảng.

Và họ cũng không bao giờ nghĩ rằng việc biến cả hai dân tộc Pa Kô và Vân Kiều thành họ Hồ là một mối nguy lâu dài về nạn đồng huyết bởi một khi những chi phái nhỏ, những họ riêng của đồng bào bị xóa dấu vết, việc lấy nhau thành vợ thành chồng có thể xãy ra ngay trong anh em họ hàng gần. Và điều đó đã xãy ra, hiện tại, chỉ số thông minh của hai dân tộc này rất thấp, tỉ lệ xóa mù chữ hầu như luôn luôn âm và đời sống của người dân Pa Kô, Vân Kiều ngày càng lún sâu vào rừng rú, sống theo kiểu tự nhiên, làm thú cảnh để phục vụ du lịch nhiều hơn là làm người đúng nghĩa.

Đời sống bị đẩy dần vào quá khứ

Bà Hồ Thị Mót, người Pa Kô, sống ở Hướng Nghiệp, Hướng Hóa, chia sẻ: “Giờ thì đời sống bà con khác xưa lắm rồi! Ngày xưa lên rừng lên rẫy kiếm hạt lúa để ăn. Nhưng giờ thì cả làng, cả già, cả con cả cháu được nhà nước đưa vậy đây. Sáng ra già lên rừng già hái măng rừng, già đi bộ từ bốn giờ sáng, già hái luôn trái ớt sim rừng già bán chung, người Kinh họ thích trái ớt sim rừng. Giờ khác rồi, nhà nước bảo già về đây, con cháu già cũng về đây, xa trường xa lớp, nó cũng không đi học luôn, nó học mấy bữa rồi nó bỏ, nó đi hái măng rừng với già luôn!”

Theo bà Mót, hiện nay, đời sống của dân tộc Pa Kô không còn được như xưa, nghĩa là phải sống tập trung về một khu dân cư do nhà nước qui định, mọi sinh hoạt bị đảo lộn, muốn đi hái măng rừng hay lên rẫy phải tốn cả vài giờ đồng hồ. Đó là chưa muốn nói đến tình trạng không có rẫy để canh tác của nhiều gia đình bởi một phần họ đã bán rẻ cho cán bộ nhà nước, phần khác bị thu hồi, rừng đối với người thiểu số ngày càng co cụm.

Trong khi đó, bà con chẳng biết làm gì để sống ngoài việc làm rẫy, đi rừng. Bây giờ săn bắt bị cấm, đốn gỗ về làm nhà bị cấm, chỉ được mót vài que củi. Tuy vậy, bà con phải chứng kiến nhiều cán bộ kiểm lâm tha hồ khai thác gỗ rừng về làm nhà và bán cho các xưởng cưa. Họ không tự khai thác mà thuê những thanh niên có sức khỏe của dân tộc thiểu số lên khai thác, nếu không bị phát hiện, họ mang gỗ đi bán, nếu bị xì tiếng ra ngoài, họ bỏ gỗ lại trong rừng và có thể tổ chức bắt các thanh niên dân tộc thiểu số vì tội làm lâm tặc, khai thác gỗ trái phép.

Bà Mót chua chát đưa ra nhận định là sau bốn mươi năm sống trong một đất nước không có “Mỹ Ngụy”, đời sống người dân thêm khổ trăm bề, bà chẳng còn thiết sống. Và sau hơn bảy mươi năm làm con của bác Hồ, mang trên mình họ Hồ, tận tâm phục vụ đảng, phục vụ Bác, cái mà đồng bào nhận được là những tấm huân chương, huy chương, giấy khen treo đầy nhà nhưng đói vẫn cứ đói và càng về sau, đất đai canh tác càng thiếu hụt, càng về sau, cảm giác mình bị rẻ rúng, khinh miệt càng cao. Đây là nỗi đau của không riêng gì bà Mót.

Mùa Đông, năm nào cũng như năm nào, suốt bốn mươi năm nay, thời bao cấp, hợp tác xã, đồng bào thiểu số của bà phải xếp hàng, van xin cái ăn, cái mặc, thời kinh tế thị trường, đồng bảo thôi xếp hàng ở trước kho lương thực nhưng lại xếp hàng dắt díu nhau trên đường nhựa để vào rừng hái măng, hái bắp chuối rừng, đào khoai mì, đào củ rừng… Rừng trở nên xa lạ, đời sống cũng xa lạ, càng ngày, bà càng thấy đời sống của mình tụt hậu xa lắc xa lơ, ra đường chẳng dám nhìn ai.

Mùa Đông, rồi sẽ đến mùa Xuân, nhưng đời sống của đồng bào thiểu số dọc dãy Trường Sơn, trên biên giới càng ngày càng dính chặt vào mùa Đông tàn tạ và sướt mướt!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

……………………………………………………………

Fwd: Lời khen chê

Kim Vu to:…,me

Có một chú tiểu rất thông minh đến gặp một vị Lạt Ma và nói rằng:
> “Trời ơi Ngài nổi tiếng lắm, đi đâu con cũng nghe danh ngài”.
>
> Được khen, vị Lạt Ma liền hướng vô bên trong và kêu:
> “Này thị giả, hãy mang kẹo ra cho chú tiểu”.
>
> Chú tiểu nói tiếp:
> “Ngài làm như vậy, sao mà giống như Phật dạy quá!” .
>
> Vị Lạt Ma lại gọi:
> “Thị giả, mang thức ăn ngon ra cho chú tiểu”.
>
> Chú tiểu khôn ngoan đó lại nói tiếp:
> “Chính Ngài là Đức Phật tại thế”.
>
> Vị Lạt Ma lại gọi vào trong:
> “Hãy mang thêm 3 đồng tiền vàng cho chú”.
>
> Chú tiểu nghĩ rằng như vậy là đủ rồi, và đứng chờ nhận quà.
>
> Chờ mãi mà không thấy ai ra, chú hỏi vị Lạt Ma sao thị giả của Ngài chưa đem kẹo, thức ăn và vàng ra.
>
> Vị Lạt Ma nói:
> “Tại sao ta phải cho con kẹo, thức ăn, vàng thật chớ? Con chỉ cho ta những lời nói trống rỗng. Ta cũng cho lại con những lời nói trống rỗng”.
>
> Nếu có ai khen lập tức quý vị cảm thấy vui sướng. Quý vị hay thường bị gạt gẫm bởi những lời nói vô nghĩa. Những lời nói đó đôi khi lừa gạt quý vị.
>
> Khi tôi sắp rời thành phố này, có một Phật tử đã làm thơ tặng tôi. Trong bài thơ đó cô ta nói: “Nụ cười của Ngài làm tan hết phiền não của con.”
>
> Tôi thấy thật buồn cười cho chính bản thân. Chính tôi tu hành mười mấy năm mà chưa tan hết phiền não của mình, thì làm sao nụ cười của tôi có thể làm tan đi phiền não của người khác?
>
> Cho nên người tu khi được người khen cũng không lấy đó làm vui, và khi bị người chê cũng không lấy đó làm buồn.
>
===

ĐÃ BIẾT VÔ THƯỜNG SAO CÒN KHỔ…?

Hoa đẹp . . . . . . .Hoa thơm . . . Hoa vẫn tàn
Tình nặng . . . . .Tình sâu . . . Tình vẫn tan
Rượu đắng . . . . Rượu cay . . . Rượu vẫn hết
Người hứa . . . . Người thề . . . Người vẫn quên
Trăng lên . . . . . .trăng tròn . . .trăng lại khuyết
Tuyết rơi . . . . . .tuyết phủ . . . tuyết lại tan
Hoa nở . . . . . . .hoa rơi . . . . . hoa lại tàn
Tình đẹp . . . . . .tình sâu . . . . .tình lại tan !
Người đẹp….. . người xấu…… rồi cũng chết
Người giàu …..người nghèo….rồi cũng hết
Cảnh đời là cảnh vô thường

Posted by: Tran Khac Huyen <trankrichard@yahoo.com>

…………………………….

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics