1.Nam Dao: ‘Trăng Nguyên Sơ,'…(DTL)2.Thơ Bùi Chí Vịnh(RFA)3.Những gì còn lại sau lũ miền Trung(RFA)

Nam Dao: ‘Trăng Nguyên Sơ,’ hiềm khích giữa chữ, nghĩa và xã hội?
Nguồn:nguoiviet.com-October 21, 2016


Nhà văn Nam Dao. (Hình: Uyên Nguyên)

Du Tử Lê

Tháng 10 năm 2004, trả lời cuộc phỏng vấn qua điện thư của nhà văn Mai Ninh ở Pháp, Nam Dao/Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, ông chỉ thực sự viết văn xuôi kể từ năm 1998. Trước đó, ông có làm thơ, gửi gấm bạn bè… Lý do theo ông:

“…‘văn xuôi’ thường cần thời gian, thứ này trước kia tôi có rất ít vì còn phải tập trung giảng dạy và nghiên cứu khoa Toán Kinh Tế, chưa có điều kiện để trả nghiệp, cái nghiệp bất bình tắc minh theo cách nói của Hàn Dũ, nôm na là không nhịn được thì khắc nói. Nhưng nói gì? Nói để ai nghe? Văn chương liệu có chia sẻ được với những ai? Chúng ta có cùng một lịch sử thật bi tráng, nhưng với tôi, tôi luôn luôn có cảm tưởng bị lường gạt, bị lừa phỉnh, qua luồng chính sử thường bị quyền lực o ép cưỡng bức. Nhu cầu chiếm hữu lại cho mình một lịch sử qua lăng kính chủ quan ngày một bức bách, trở thành yếu tố đẩy tôi vào thể loại Tiểu Thuyết Lịch Sử. Năm (19)99, Gió Lửa là tác phẩm đầu tay. Nhưng xin nói ngay, nghiêng thì có nhưng tôi chưa nghiêng hẳn về văn xuôi đâu! Khi Thơ, bà Chúa của ngôn ngữ vời đến, tôi sẽ chẳng cưỡng lại được. Nhưng hiềm là bà Chúa vốn khó tính, không phải vẫy gọi tất cả mọi người, dẫu cả nước mình, trong và ngoài, ai cũng tự xưng là nhà thơ. Lục bát ắt rất truyền thống, vần điệu niêm luật tất là cổ điển, và nếu trúc trắc lên đèo xuống suối thì… gọi sang trọng là hành ngôn cách tân hậu hiện đại…” (1)

Nhưng, chỉ một năm sau, Nam Dao/Nguyễn Mạnh Hùng đã hoàn tất tiểu thuyết lịch sử “Gió Lửa,” dày gần 500 trang chữ in. Và, liên tiếp, tính tới hôm nay, họ Nguyễn đã cho ấn hành 16 đầu sách – – Từ tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký tới thoại kịch… Khá nhiều cuốn đã được tái bản. Cộng chung số trang sách được ấn hành của Nam Dao, có thể đã lên tới vài nghìn trang.

Tuy nhiên, với tôi, đóng góp cho văn chương của một tác giả, không phải là số lượng tác phẩm hay, tổng số trang sách ông/bà ta đã hoàn tất mà, về phương diện hình thức, hay nội dung…, tác giả đó có được những thay đổi, hoặc mới mẻ cho văn chương hay không?

Từ quan điểm này, tôi trộm nghĩ, dường như ở lãnh vực nào, Nam Dao/Nguyễn Mạnh Hùng cũng cho thấy nỗ lực làm mới văn chương của ông. Nói cách khác, từ truyện ngắn tới tiểu thuyết, từ bút ký tới thoại kịch, bằng vào kiến thức sâu, rộng, kinh nghiệm sống phong phú,… họ Nguyễn đã luôn đắm mình trong những thử nghiệm. Tựa ông muốn đánh những đường kiếm trầm trọng về phương diện kỹ thuật, ngôn ngữ, cũng như tư tưởng.

Dẫu vậy, hai lãnh vực mà Nam Dao/Nguyễn Mạnh Hùng được dư luận chú ý và, có thể nói thành công nhất là lãnh vực tiểu thuyết lịch sử và, hiện thực xã hội.

Nói tới lãnh vực văn chương hiện thực xã hội của Nam Dao/Nguyễn Mạnh Hùng, những người theo dõi bước đường chữ, nghĩa dằn xóc bất trắc của Nam Dao, hẳn chưa quên vụ tiểu thuyết nhan đề “Trăng Nguyên Sơ” của ông – – Do nhà XB Lao Ðộng ở VN phối hợp với Trung Tâm Văn Hóa Ðông Tây, ấn hành năm 2008. (2)

Tác phẩm này, ngay tự sơ sinh, đã không nhận được nụ cười (dù nửa miệng) của định mệnh! Tựa giữa định mệnh chữ, nghĩa ở “Trăng Nguyên Sơ” và thực tế vốn ẩn tàng hiềm khích nhiều đời, kiếp! Tác phẩm mới phát hành chưa được một tháng thì, cơ quan kiểm duyệt đã yêu cầu NXB Lao Ðộng thu hồi và, người chịu trách nhiệm nội dung tác phẩm có 30 ngày để sửa chữa, nếu muốn sách được tái lưu hành.

Cơ quan kiểm duyệt quy kết “Trăng Sơ Nguyên” là:

“…Cuốn sách có những trang, những đoạn mô tả, bình luận, phê phán những hiện tượng tiêu cực trong cuộc sống hiện đại tại Việt Nam, ‘như chuyện đòi ‘boa’ ở khách sạn, ăn xin, bán dâm, loạn luân bố chồng ngủ với con dâu, bạn bè lừa lọc nhau, người vô tội bị quản thúc 3 năm chỉ vì đưa thơ ra nước ngoài, sự bất lực của bộ máy công quyền trong việc giải quyết các vụ kiện về đất đai…” (Trích công văn của Cục Xuất Bản gửi nhà xuất bản Lao Ðộng ngày 03/12/2008). (Da Mầu.com. Nguồn Wikipedia)

Là người chịu trách nhiệm bản thảo “Trăng Sơ Nguyên,” nhà văn Trần Tử Huyến, trong phần “giải trình,” đã phản biện rằng:

“…Trăng Nguyên Sơ là tác phẩm văn học thể loại hư cấu (tiểu thuyết), được viết với thủ pháp hậu hiện đại ít nhiều mới lạ với bạn đọc truyền thống trong nước, như chính tác giả nói trong Lời Phi Lộ: ‘Cấu trúc tiểu thuyết này kết hợp với thể cổ điển nào là phóng sự, rồi cả chưởng Kim Dung, tức một món lẩu đủ yếu tố ‘Hậu hiện đại’ có thể gây sốc cho người đọc.’ Thông qua những trang ‘du ký’ kể về hành trình vừa thật vừa giả tưởng, qua không gian và qua cả thời gian, của một nhóm người đi tìm báu vật ‘Bảo Quốc Hộ Dân’ và đi tìm những người đi tìm báu vật đó, tác giả muốn ghi lại những ấn tượng về đất nước và con người qua những thăng trầm của lịch sử. Ðây là tác phẩm nghệ thuật có những cố gắng tìm tòi, cách tân trong hình thức thể hiện cũng như trong suy ngẫm mang tính triết lý nhân sinh về lịch sử, về số phận người và về quan hệ người với người, với xã hội, thiên nhiên (…).

“…Ngôn từ đối thoại của nhân vật, và của cả tác giả, mang tính ‘Hậu hiện đại’, diễu nhại, trào lộng, dễ gây mất thiện cảm, thậm chí là sốc với một số người.

“Về điểm này tôi xin có ý kiến giải trình:

“Những hiện tượng trên có được mô tả trong cuốn sách, nhưng chỉ là đơn lẻ (không lặp lại), không đậm đặc, chiếm không nhiều số trang sách và số sự kiện (đoạn công văn vừa dẫn đã liệt kê gần hết những hiện tượng ‘tiêu cực’ có trong sách); ngoài ra trong sách còn nhiều những sự kiện, những suy tư và cảm hứng tích cực khác, nên không thể nói là nội dung tác phẩm chỉ ‘tập trung phản ánh hiện thực một cách phiến diện khách quan, chỉ thấy tiêu cực, yếu kém’ như nhận định của công văn (…).

“…Hơn nữa, tất cả những hiện tượng trên đều là có thật trong hiện thực cuộc sống ở Việt Nam (và không chỉ ở Việt Nam). Ở đây tác giả dùng thủ pháp ‘phóng sự’ đưa những sự kiện đó vào trang sách để làm nền cho ý đồ nghệ thuật của mình – phê phán cái tiêu cực để đi tìm cái tích cực, cái nguyên sơ của tính người. Thái độ của tác giả trong cuốn sách là khẳng định cái tốt đẹp, phê phán những cái xấu trong xã hội – đó là đặc trưng tất yếu của nghệ thuật văn chương. Ðiều này có thể tìm thấy trong rất nhiều tác phẩm của các tác giả, tác phẩm khác được dư luận đáng giá cao ở trong nước…” (Nđd)

Trước cái chết tức tưởi của đứa con tinh thần, nhà văn Nam Dao/Nguyễn Mạnh Hùng đã có “…Vài lời… cho số phận,” chua chát, như sau:

“Thời gian viết xong Trăng Nguyên Sơ (TNS), đọc báo thấy có nghị quyết này nọ khuyến khích người Việt ở hải ngoại gửi đô-la, mua nhà (có điều kiện để đàng hoàng hợp pháp), đóng góp ‘chất xám’ vào công cuộc xây dựng đất nước,… tôi đã hồ hởi, biết đâu đất nước Việt Nam đang thay đổi. Gửi về cho mấy ông bạn văn, TNS được vài vị chú ý, giới thiệu với những nhà xuất bản trong nước, và xin giấy phép… Tháng 7, 2008, nhà xuất bản Lao Ðộng nhận in, mọi việc suôn sẻ. Tháng 11, TNS ra đời. Cuối tháng 11, đầu tháng 12, nghe tin như sét đánh ngang, Trăng (TNS) kia đang sống chuyển sang từ trần: Cục Xuất Bản ra tay bôi chất ‘xám’ Việt kiều tôi thành ‘đen kịt’ một mầu ‘tiêu cực’. Sau đó, người biên tập TNS có bản giải trình với nội dung tôi chia sẻ và đồng ý 100%…” (Nđd)

Du Tử Lê

(Kỳ sau tiếp)

——-

Chú thích:
(1) Theo amvc.free fr. Nguồn Wikipedia-Mở.
(2) “Trăng Nguyên Sơ” ấn hành lần thứ hai, bởi NXB Thi Văn Hoa Kỳ, 2015.

 ……………………………………………………………………….
Thơ Bùi Chí Vinh
Nguồn: Mặc Lâm, Biên tập viên RFA -2016-09-24

Nhà thơ Bùi chí Vinh trong ngày khai mạc triển lãm tranh sơn dầu tại Nhà Triển Lãm Thành Phố.
Courtesy of Bui Chi Vinh’s facebook

Thơ Bùi Chí Vinh

“Sinh nghi ta viết một bài hành
Vợ nghi chồng, em út nghi anh
Cha nghi con cái, bè nghi bạn
Thủ trưởng thì nghi hết ban ngành
Láng giềng dòm ngó nghi hàng xóm
Ngoài đường nghi phố chứa lưu manh
Ngay ta khi viết bài in báo
Cũng nghi mình kiếm chác công danh
Trời ơi, mọi chuyện sinh nghi thiệt
Chén kiểu thường nghi kỵ chén sành
Thời buổi công hầu như chén cứt
Thiếu chó, mèo ăn cũng rất nhanh
Mèo ăn cho chó leo bàn độc
Vừa sủa vừa nhai riết cũng rành
Trẻ con khát sữa ai cho bú
Vú mẹ gầy, sâu rúc nồi canh
Quang Trung bỏ núi Tây Sơn xuống
Hoảng hốt vì gương vỡ chẳng lành
Nguyễn Du chỉ một đêm dạo phố
Đoạn Trường ngồi viết lại Tân Thanh
Thuý Kiều phát triển nhiều như thế
Thảo nào đất nước hóa lầu xanh
Nhà tù phát triển nhiều như thế

    Tình cảnh đất nước của mình hiện nay cũng như thế, Bắc – Nam sau ngày 30 tháng tư đã được thống nhất nhưng thật ra là sự thống nhất giả hiệu.
– Nhà thơ Bùi Chí Vinh

Kẻ sĩ làm sao dám học hành
Ta làm thơ mà lòng đứt ruột
Suốt đời bao tử chạy loanh quanh
Lãnh tụ nói: đói quên nghi kỵ
Ơn ấy ngàn năm sáng sử xanh!”

Đây là bài thơ có tên “Sinh nghi hành” của nhà thơ Bùi Chí Vinh do Hoàng Việt đọc.

Bài thơ như một clip video ngắn tô đậm những nhân vật của cuộc sống mà tất cả đang láo liên giữ lấy phần tốt nhất của xã hội cho mình. Bài thơ dựng lại cái hồn vía bên trong con người, dù ăn mặc sang trọng hay rách rưới, dù công nhân hay cán bộ họ len lén nhìn nhau mà sợ bị người kia hãm hại mình trong lúc sơ ý hay lơ đễnh.

Bài thơ ngắn và vẫn ngôn ngữ đầy chất giang hồ của Bùi Chí Vinh làm cho người đọc, người nghe có cảm tưởng anh đang cầm chiếc máy quay phim chỉa thẳng vào mình để rồi sau đó lại thở ra vui mừng vì không phải mình trong ấy.

Mặc Lâm: Chào nhà thơ Bùi Chí Vinh, rất vui được tiếp chuyện với anh ngày hôm nay trong chương trình Văn hóa nghệ thuật của đài Á châu tự do.

Thưa anh, chúng tôi vừa nhận được một bài thơ của anh nhưng không biết anh sáng tác vào dịp nào? Bài thơ có tên là “Sinh nghi hành”, cái tựa thôi đã gây một ấn tượng rất lớn, chữ “hành” tuy cũ nhưng khi nằm cạnh “sinh nghi” thì nó thành mới, nó có vẻ gì đó làm cho người ta tò mò. Anh có thể cho biết là bài thơ làm hồi nào? Từ xưa hay chỉ mới đây?

Nhà thơ Bùi Chí Vinh: Bài này viết từ thập niên 80, thời kỳ rong ruổi giang hồ, thời không có công ăn việc làm, sống bằng nghề đạp xích lô, bán ve chai, làm công nhân xưởng nguyên liệu, làm ở xưởng đồ chơi, làm tất cả nghề để mưu sinh, kiếm sống. Tôi được tiếp xúc lại với tất cả những nhân vật trước khi tôi đi bộ đội, tức là thời kỳ tôi còn làm báo. Từ các tổng biên tập cho đến bí thư Thành ủy cho đến phó Chủ tịch thành phố, Chủ tịch thành phố, Ủy viên Trung ương Đảng… tức là người ta chỉ bằng mặt nhưng không bằng lòng, người ta sống không tin tưởng lẫn nhau, và bài thơ “Sinh nghi hành” xuất hiện vào lúc đó.
Đất nước tang thương

Mặc Lâm: Nhưng tại sao bao nhiêu chục năm qua rồi mà bài thơ theo tôi nhận xét thì như là anh mới vừa nói chuyện ngày hôm qua vậy? Vì trong này có một câu nói về Kiều, anh nói là:

“Thúy Kiều phát triển nhiều như thế

Thảo nào đất nước hóa lầu xanh.”

Ngay câu này đã làm cho người ta liên tưởng rằng, chuyện này vừa mới xảy ra ngày hôm qua giữa một người tên Nga và một người tên Mỹ đang ồn ào dư luận, đây có phải là một sự trùng hợp hay không? Hay xã hội vẫn tiếp tục lặp lại những gì mà nó vốn có từ xưa tới nay không thay đổi thưa anh?

Nhà thơ Bùi Chí Vinh: Một bài thơ lớn bao giờ nó cũng mang tính chất tiên tri. Bài thơ này lúc làm không có bút mực nào ghi lại, chỉ đọc trên bàn nhậu anh em giang hồ thôi, sau đó anh em họ truyền khẩu gần như cả nước và nước ngoài. Những anh em đi ra nước ngoài cũng mang theo bài thơ đó.

Một bài thơ đậm dấu ấn trong lòng người đọc, nó tồn tại mãi bởi vì nó có tính cách dự báo, tiên tri trước những gì sẽ xảy ra. Anh có thể thấy nó trùng hợp với những gì xảy ra gần đây, nóng bỏng. Một đất nước tráo trở như thế, người phụ nữ, người đàn ông, tất cả cư xử nhau một cách nhỏ mọn, đề phòng lẫn nhau, thậm chí chụp giựt, trục lợi lẫn nhau, những cái đó luôn luôn lặp lại, cái vòng quay lịch sử luôn luôn lặp lại, đất nước này như một cô gái điếm phải bán thân nuôi mình… đều làm những công việc như thế.

Người bán và người nhận đều tính giá của món hàng, đất nước giả dối “sinh nghi hành” vậy đó. Đặc biệt tập trung vào vấn đề tình ái, vấn đề này phát triển nhiều như thế… Tạo ra cảnh tang thương cho đất nước mình.


Một bài thơ của nhà thơ Bùi Chí vinh được dịch sang ngoại ngữ khác. Courtesy of Bui Chi Vinh’s facebook

Mặc Lâm: Đó là nói về số phận của những người đàn bà. Về kẻ sĩ trong xã hội, anh là một trong những người đã viết cho những tờ báo lớn và cũng là người làm thơ nữa, thì cũng có thể nói là một kẻ sĩ, nhưng anh lại viết, “kẻ sĩ làm sao dám học hành”, phải nói đây là một câu than đứt ruột vì “nhà tù phát triển nhiều như thế” thì làm sao xã hội này có thể phát triển được? Cái nhìn của anh về vấn đề kẻ sĩ, về đàn bà, về nhà tù, về Thúy Kiều, về Quang Trung . . .  chúng tôi thấy có vẻ lấy lịch sử để soi rọi và đối chiếu với xã hội hiện nay. Anh có thể nói thêm về cái nhìn của anh về xã hội thật, xã hội chung quanh anh đang xảy ra, nó như thế nào dưới mắt nhìn của anh, thưa anh?

Nhà thơ Bùi Chí Vinh: Người ta nói “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, mình là một con người không phải thất phu mà mình là kẻ sĩ thì mình cần phải vượt qua tất cả để nói những gì mình đã thấy, những gì mình dự báo được. Thật ra cái việc đất nước mình đang lặp lại cuộc chiến tranh. Đặc biệt là chiến tranh nam kỳ, chiến tranh bắc nam, Quang Trung bỏ Tây Sơn, tức là sau khi thống nhất đất nước, ngay cả gia đình Tây Sơn cũng phải chia ra làm đôi, một bên là Thái Đức đế Nguyễn Nhạc, một bên là Nguyễn Huệ gần như từng đấu với nhau, thành ra có cảnh “nồi da xáo thịt”.

Tình cảnh đất nước của mình hiện nay cũng như thế, Bắc – Nam sau ngày 30 tháng tư đã được thống nhất nhưng thật ra là sự thống nhất giả hiệu, trên thực chất nó là hình ảnh một con đỉa, cắt đỉa ra rồi thả lại vào ao nhưng đỉa không bơi được, hai cái đầu trôi theo hai hướng khác nhau. Đất nước mình hiện nay đang là như vậy, đất nước tôi như hình con đỉa dính liền bằng lưỡi dao, lưỡi dao ở đây là sông Bến Hải nên khi thiên hạ đã được nối lại thì đất nước vẫn hai đầu, cõi đất nước ký sinh theo hai kiểu khác nhau, nước thì bám theo Mỹ, nước đi theo Nga, Tàu, thành ra đất nước mình nó luôn như vậy, nó giống như:

“Quang Trung bỏ núi Tây Sơn xuống
Hoảng hốt vì gương vỡ chẳng lành.”

Ngay sau năm 1975 tôi đã thấy được điều đó, phải nói lên điều đó. Còn trước khi thống nhất chúng ta thường hay nói câu “nhà tù nhiều hơn trường học”, nhưng bây giờ sau khi thống nhất, chẳng những nhà tù không bớt đi chút nào, thậm chí còn nhiều hơn nữa. Nhà tù để nhốt những người vượt biên, để nhốt những người tranh đấu, nhốt dân oan, nhốt những tệ nạn xã hội.

Tôi ở quân lao rồi, sau khi ở quân lao xong tôi bị đưa ra tòa quân sự. Chỗ ở của tôi bề ngang là 1 viên gạch bông, bề dài là 5 viên gạch bông, vì tôi chống đối cấp chỉ huy trong quân đội nên người ta chuyển từ quân lao này sang quân lao khác, mà anh biết một viên gạch bông có hai tấc, chật chội ở nhà tù đến mức độ khiến người ta chán ghét. Ở tù nóng nực phải cởi trần truồng ra để nằm, rồi lây bệnh truyền nhiễm, đó là nhà tù chỉ có ở Việt Nam.

Tôi từng là một thành viên trong nhà tù quân lao, nhà tù nhiều hơn trường học gấp đôi gấp ba lần nên đất nước chúng ta tang thương như thế.
Thoát Trung?

Mặc Lâm: Thưa anh, cái từ “sinh nghi” của anh thì âm hưởng rất rộng có thể từ mắt nhìn, từ nghi ngờ từ tư duy cũng có thể sinh nghi được.  Xã hội hiện nay có những hiện tượng không sinh nghi nữa mà nó hiển hiện tại Việt Nam đó là thực phẩm bẩn. Khi ăn uống bất cứ cái gì người ta cũng lo sợ bởi người bán chuốc độc cho nhau bằng những phương pháp làm lợi một cách vô lương tâm, rồi bây giờ lại xảy ra vụ cá nữa, những câu chuyện như vậy không còn sinh nghi nữa nhưng để miêu tả sự việc đó anh có nghĩ rằng sẽ đánh động xã hội bằng một bài thơ khác nữa hay không?

Nhà thơ Bùi Chí Vinh: Tôi có viết điều anh vừa nói rất nhiều, chẳng hạn như bài thơ “Chúng tôi không bầu cho một thể chế xa dân”. Bài thứ hai là “Bài thơ của một xác người bó chiếu chở sau xe gắn máy” mới đây nhất.

Tất cả những nguồn gốc đều do Trung Quốc mà ra hết. Hễ còn dính líu Trung Quốc là còn đầu độc, còn mua đi bán lại còn hóa chất đổ về. Trước giải phóng làm gì có thực phẩm độc như thế, ẩm thực rất đàng hoàng con người ta ra chợ lựa bó rau con cá không cần dè dặt nhưng sau giải phóng thì thực phẩm bẩn đổ về, tất cả hóa chất đổ về mua đi bán lại những thứ xấu xa bỉ ổi toàn từ Trung Quốc và thậm chí như anh vừa nói cá ăn không được cũng bắt nguồn từ Trung Quốc. Bởi Formosa tuy là của Đài Loan nhưng công nhân ở đó 70 – 80% người Trung Quốc thậm chí cổ phần người Trung Quốc cũng chiếm cũng lớn. Tất cả những gì xấu xa đầu độc dân tộc mình đều do người Trung Quốc gây ra vì vậy phải thoát ra hoàn toàn từ sự lệ thuộc với Trung Quốc, nô lệ Trung Quốc thì mới thoát ra được sự xấu xa hiện nay.

    Tất cả những gì xấu xa đầu độc dân tộc mình đều do người Trung Quốc gây ra vì vậy phải thoát ra hoàn toàn từ sự lệ thuộc với Trung Quốc, nô lệ Trung Quốc thì mới thoát ra được sự xấu xa hiện nay.
– Nhà thơ Bùi Chí Vinh

Mặc Lâm: Xin cám ơn nhà thơ Bùi Chí Vinh. Sau đây là bài thơ có tên “Bài thơ về xác người bó chiếu chở trên xe gắn máy” qua giọng đọc Hoàng Việt:

“Đất nước nghèo mạt hạng
Anh bó xác em vào manh chiếu cột sau xe
Bọn quý tộc đỏ tiền muôn bạc vạn
Mở mắt mà coi chân người chết xanh lè

Mở mắt mà coi dân chúng chửi thề
Có đánh bắt xa bờ, cá cũng không ăn được
Vua quan hàng ngày tẩm bổ nhân sâm
Trong khi con nít ốm đau không có thuốc

Đất nước biến thành chư hầu Trung Quốc
Lũ Mạc Đăng Dung quỳ mọp trước thiên triều
Đám Lê Chiêu Thống xem dân như thù địch
Gò Đống Đa đồng nhân dân tệ phủ xanh rêu

Đất nước nghèo bởi một bầy sâu
Gặm tất cả tài nguyên đem dâng giặc
Thân xác Việt Nam mà hồn vía tận nước Tàu
Có biến cố là quay đầu phương Bắc

Đất nước quá nghèo nên anh bó xác
Chở em đi lủng lẳng khóc cuộc đời
Bọn quý tộc đỏ quá giàu nên không dư nước mắt
Chúng dại gì cho nước bốc thành hơi…”
Hy vọng cuộc trao đổi của chúng tôi với nhà thơ Bùi Chí Vinh sẽ giúp quý vị hiểu hơn hiện trạng xã hội hiện nay từ góc nhìn của một nhà thơ. Mỗi câu thơ của anh là một tấm ảnh sống động thể hiện đúng bản chất nhân vật mà máy móc dù hiện đại cách nào cũng không lột tả được cái thần của nó.

Thơ Bùi Chí Vinh đã biểu đạt hữu hiệu và nhạy bén với sinh hoạt xã hội mà con người trong đó đang tranh đấu để sống còn. Thơ anh giống như phát súng khởi đầu cho một cuộc đua mà chỉ có nhà thơ chạy việt dã với chính mình trên cung đường đầy sạn sỏi. Khán giả vừa là nạn nhân vừa là người bàng quan đứng bên lề đường vỗ tay một cách hồn nhiên và ra về sống cuộc sống như ngày hôm qua đã từng.

…………………………………………………………..

Những gì còn lại sau lũ miền Trung
Nguồn:RFA/Nhóm phóng viên tường trình từ VN-2016-10-21

 

Dọn trường sau lũ.-RFA photo

Một trận lũ mà theo người dân Hà Tĩnh và Quảng Bình là giống như đại hồng thủy kéo qua, cuốn trôi và xô dạt mọi thứ, đời sống đảo lộn và gần như mất trắng mọi thứ, không ngoại trừ mất cả mạng sống và ước mơ. Đó là sự thật đau lòng mà sau một cú nhấp chuột khởi động lệnh xả thải, thủy điện Hố Hô đã biến cả một đoạn ruột miền Trung thành biển nước theo lý giải của họ là “đúng qui trình”.

Nước dâng quá nhanh, không kịp trở tay

Chị Lý, một người dân huyện Lệ Thủy, Quảng Bình, buồn bã chia sẻ: “Nước vào nhà là gần hai mét nhưng nó chảy khủng khiếp lắm, trôi dạt hết đồ đạt, trôi mất bức tường sau của nhà em. Khi đó mình nghĩ mình chết rồi, điện cho người thân nói rằng có thể bị chết trongt trận lũ. Nước nó chảy nhanh…Giờ đồ đạt trong nhà không có chi nữa hết, chừ chẳng biết lấy chi mà xây dựng lại bức tường sau đây, đã nghèo rồi còn thêm như thế này nữa!” (khóc).

Chị Lý cho biết thêm là chưa bao giờ chị nhìn thấy một trận lũ có tốc độ dâng nước cao và mạnh kinh hoàng như cái đêm 14 tháng 10 vừa qua. Chỉ trong vòng chưa đầy hai giờ đồng hồ, từ lúc 10 giờ đêm đến 12 giờ đêm, nước tăng tốc một cách thất thường. Nếu như lúc 5 giờ chiều đến 10 giờ đêm, nước chỉ ngấp nghé ngoài ruộng như bao trận lụt bình thường và người dân quan sát thấy có vẻ như lụt đang đà rút nước, chỉ dọn dẹp một số thứ trong vườn, đưa một số thứ vật dụng và lương thực lên gác và đi ngủ vì nước bắt đầu rút.

Đùng một cái, lúc 10 giờ đêm, lũ dâng lên lại và tốc độ nước dâng nhanh chưa từng thấy, chỉ trong vòng hai giờ đồng hồ, nước dâng lên thêm trên hai mét, nước từ ngoài ruộng đi vào ngõ chỉ chừng độ mươi phút và tiếp tục vào sân, vào thềm nhà, vào nhà, lên bàn thờ và chấm gác. Lúc này không ai kịp dọn dẹp đồ dùng, nhất là ti vi, tủ lạnh và trâu bò, không tài nào có thể dắt trâu bò lên đường 1A để chạy lũ. Bên cạnh đó, tốc độ nước chảy mạnh không thể tưởng tượng được.

Trong lúc chị Lý và các con ngồi trên gác gỗ nhìn nước dâng lên cao dần và chấm đà gác thì bất ngờ nước xô bức tường sau căn nhà của chị đổ ầm, cả căn gác đong đưa vì thiếu bệ đỡ. Lúc này mấy mẹ con chị Lý vừa cầu nguyện Chúa thương tình cứu giúp vừa ôm nhau để nếu lở bị sụp gác, bị nước cuốn trôi thì cũng chết cùng ngày, giỗ cùng ngày. Vì càng lúc căn gác càng có dấu hiệu oằn xuống, sụm dần và có thể sụp xuống bất kì giờ nào. Trong khi đó, nước cuốn điên cuồng, sâu hoắm và có thể đưa bất kì thứ gì ra sông, ra biển.

Nhưng rồi có lẽ nhờ Chúa thương tình đã dang tay che chở cho gia đình chị nên trên căn gác sắp sụp, không có bệ đở chính ở mặt sau, chứa năm con người và gần nửa tấn lúa, vật dụng, bếp núc, đôi khi tụt xuống một nhịp rồi lại đứng im ở nhịp đó, nước chạm dần vào gác, chiếu trải trên gác ướt mèm… Cuối cùng, gia đình chị Lý cũng sống sót qua trận lũ. Có vẻ như mọi đồ vật trong nhà chị đã đi thay cho mạng sống của gia đình chị. Sống sót sau lũ, nhà chẳng còn gì để ăn, đói, lạnh, ướt, thèm được ăn chén cơm, thèm được khóc cho thỏa cơn tuyệt vọng, thèm được nhìn thấy đồ vật mà mình nâng niu lâu nay cho dù nó đã hư hỏng, nằm chỏng vơ ngoài ruộng chăng nữa!

Nhưng dường như không còn thứ gì. Cái điệp khúc “chằng còn gì, chẳng còn gì, chẳng còn gì…” cứ lặp đi lặp lại trong mắt, trong tâm tưởng chúng tôi khi chúng tôi đi qua vùng lũ. Cái nghèo, cái đói, cái lạnh cứ hiện ra khắp mọi nơi. Có nhà ăn cơm thiu và coi đó là hạt ngọc trời mà may mắn mình còn có được bởi vì ít ra cũng còn cơm mà ăn.

Như lời ông Thành, một cư dân xã Quảng Văn, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình: “Ngày qua thì riêng hộ gia đình cá nhân tôi thì nước vào sâu chừng 1,8 mét, lúa ướt hết, chẳng biết tính sao đây! Còn ở trong địa bàn thôn thì dân thiệt hại nhiều, trâu bò, súc vật bị trôi nhiều lắm!”.

Hà Tĩnh chìm trong biển nước, kẻ cười người khóc

400.jpg
Nhiều người nuôi cá thiệt hại nặng. RFA photo

Một người dân trong vùng lũ Hương Khê, Hà Tĩnh, tên Hưng, chia sẻ: “Nước lên một mét rưỡi, nước chảy xiết quá, đồ đạc gì cũng trôi hết..”.

Ông Hưng cho biết thêm là chuyện xả lũ của thủy điện Hố Hô đối với người dân Hương Khê chẳng có gì là xa lạ, thậm chí quá quen thuộc, năm nào mà chẳng có xả lũ, có chết heo gà, trâu bò. Bởi sống Ngàn Sâu chảy qua Hương Khê vốn là cửa xả lũ chính của thủy điện Hố Hô. Chỉ có điều năm 2010 và năm 2016 này, thủy điện Hố Hô xả quá mạnh nên nước dâng quá cao, quá nhanh khiến nhiều nhà bị ngập nặng, nước chấm nóc nhà.

Thiệt hại năm nay ở Hương Khê cũng tương đương với thiệt hại trận xả lũ năm 2010. Khi chúng tôi hỏi thăm về chế độ đền bù cho người dân ở trận xả lũ năm 2010 và những trận xả lũ sau này như thế nào thì ông Hưng chó biết là người dân Hương Khê chưa có ai nhận được bất kì đồng đền bù nào của thủy điện Hố Hô. Chuyện họ xả lũ, họ cho rằng đúng qui trình, mà thứ gì đã đúng qui trình thì những ai bị thiệt hại là do sai qui trình của họ nên phải tự chịu lấy.

Ông Hưng chua chát cho biết thêm là kể từ khi thủy điện Hố Hô đi vào hoạt động, người dân Hà Tĩnh, Quảng Bình mỗi năm vào mùa mưa luôn phải nhận vài trận xả lũ vừa vừa, đủ để nước vào nhà, ngập không đến nỗi chết choc nhưng ướt vật dụng và hư hỏng mùa màng. Và khi nổi hứng thì làm một phát xả lũ, cả khu vực Hà Tĩnh, Quảng Bình trở thành biển nước.

Ông Hưng lắc đầu, chua chát nói rằng biển thì bị độc tố do Formosa gây ra, sống lưng chừng giữa núi và biển, đến mùa mưa thì thủy điện xả lũ, chẳng biết sống dựa vào đâu! Ông Hưng nói vui là một ngày nào đó, Hố Hô và Formosa bắt tay nhau, thay vì xả độc vào mùa nắng, Formosa chuyển sang xả độc vào mùa mưa và liền sau đó thì Hố Hô xả lũ để đẩy độc ra khơi và để đẩy trách nhiệm về một hướng khác nữa thì chắc là người dân hết đường sống!

Lời nói đùa của ông Hưng tuy bâng quơ nhưng khiến chúng tôi cảm thấy ớn lạnh, thực sự là quá ớn lạnh nếu chuyện này xảy ra!

………………………………………………………………

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics