1.Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn * Kỳ 1&2(DTL)2.Thư cho người bạn già (Co Hoang)

Hoàng Xuân Sơn, từ lục bát, tới những đổi mới về hình thức

Du Tử Lê/Người Việt May 12, 2017

Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn. (Hình: Báo Hợp Lưu)

Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn (tên thật, được dùng như bút hiệu) bước vào nghiệp văn chương rất trẻ, khi còn đi học thời trung học ở Việt Nam, trước Tháng Tư, 1975.

Sức viết của ông càng mạnh mẽ, nhiều nét khắc, khác nhau hơn, khi vượt biên, chọn thành phố Montreal, Canada, để định cư.

Dưới đây là năm bài lục bát của nhà thơ Hoàng Xuân Sơn.

“Ngỏ
Ừ! Xem
sáu
tám
ngược đời
Chữ ngất ngư
chữ
câu đòi đoạn
câu
gọi rằng
lục bát nằm lâu
ể mình đứng dậy
thành
câu thơ
rời.”

“Dựa Cột
Một lần
dựa cột nằm nghe
chim trời
cá nước
gọi về hư không
trăng sao
tưởng để trong lòng
ai ngờ
vãn lục phai hồng thế kia
buộc vào
một nhánh sương khuya
chờ mai nắng lửa
tan lìa
nguyện hư.”

“Áo Xuân Xưa
Vịn hờ
vai áo em
xưa
ngỡ chòm mây trắng bay qua
vực hồng
có đôi chim vợ chim chồng
hót tràn khe lãnh
rừng thông
nắng trào
ửng mùa Xuân
tới non cao
du hồn tiểu lụy
hóa vào đại ân
chín rồi
quả mộng trầm luân
áo em trắng giữa muôn phần
cỏ
cây.”
1990

“Gọi Bầy
Sáng nghe chim nhạn kêu bầy
mới hay biển động mùa cây lá tàn
không chừng mây bão lần sang
níu chân người ở lang thang dặm về
mỗi chiều thắp một tầng mê
tiền thân huyễn mộng kéo lê thê dài
đêm ơi thoát dậy hình hài
cho mùa nhẹ trở trên vai mộng nhàu.”

“Chương Sông
(Áo trắng dài như biển
như sông lồng lộng nước hờ. Chau)
đi đi
mây phất tang. Đâu
còn chi mong, ngó
sầu âu một mình
rớt xuống ngôi đời chùng chình
mưa mưa
chiều. xó – làm thinh bữa, rời
áo biển nom như trăng. Ngời
như gương lược. Kín
như trời, ngực thơm
thà đừng gặp. thà hơn
xanh rêu dại ủ vết mòn thai hương
cổ kính đời xưa cũng dường
áo sông ra biển chớp nguồn
thôi
giăng.
Juin 03”

Mở đầu tuyển tập thơ “Lục Bát” do Thư Quán Bản Thảo ấn hành, như một quà tặng đặc biệt cho họ Hoàng, người mà không chỉ anh chị em ở Thư Quán Bản Thảo yêu mến, mà hầu như bất cứ văn nghệ sĩ nào từng tiếp xúc với ông, cũng đều đem lòng quý mến ông vì nhân cách chân thật, êm đềm, và tài năng luôn mở rộng để đón nhận những đổi mới, chí ít cũng là phương diện hình thức.

Mở vào “Lục Bát Hoàng Xuân Sơn,” nhà văn Trần Hoài Thư, đại diện anh chị em điều hành tạp chí này viết:

“‘Lục Bát Hoàng Xuân Sơn’ được ra đời như là tấm lòng của Thư Quán Bản Thảo và anh em chủ trương đối với một nhà thơ đã dành cho Thư Quán Bản Thảo những ân tình văn chương đặc biệt trong suốt hơn hai năm qua. Trong 14 số, hầu như không có số Thư Quán Bản Thảo nào lại không có thơ anh.

Có thể nói sự hình thành của tập thơ này là kết quả của một công trình chung mà chúng tôi gọi là ‘project Hoàng Xuân Sơn.’ Mỗi người trong nhóm đều có phần hành riêng. Phạm Văn Nhàn lo layout trang ruột. Cao Vị Khanh lo phần giới thiệu. Trần Hoài Thư lo phần in ấn, design bìa, tìm loại giấy in thơ đặc biệt, và điều hành tổng quát. Riêng Trần Bang Thạch thì ở vai trò trừ bị. Trần Quí Thoại cung cấp phụ bản.

Và cuối cùng, là niềm vui. Với anh, thêm một đứa con tinh thần được ra đời. Và với chúng tôi, ít ra, từng trang giấy lóng lánh giọt mồ hôi, và tình bạn hữu, cuối cùng biến thành màu rượu đỏ. Pha thêm ngọt ngào cho Lục Bát Hoàng Xuân Sơn của anh.

Thay mặt Thư Quán Bản Thảo và Thư Ấn Quán

Trần Hoài Thư.”

Nếu để ý, bạn đọc sẽ thấy ở bốn bài lục bát đầu tiên, trong tuyển tập thơ “Lục Bát Hoàng Xuân Sơn,” không có một dấu vết đột phá nào, ngoài sự ngắt câu xuống hàng, giống như để cho lục bát một “diện mạo” khác, từ lâu, vốn đã được nhiều nhà thơ Việt Nam khai thác, như một trò chơi chữ, nghĩa tùy hứng. Nó chỉ mang ý nghĩa một cuộc “trình diễn” và không thay đổi, ảnh hưởng gì tới nhịp chảy thực sự những dòng lục bát đó. Đó là những sáng tác được tác giả viết trước thời điểm đầu thập niên 2000 (có thể từ những thập niên 1990, hoặc trước nữa).

Nhưng, những ai theo dõi đường bay thi ca của Hoàng Xuân Sơn, thì sẽ dễ nhận ra rằng, bước vào thời điểm đầu kỷ nguyên 2000, chính xác là năm 2003, qua bài thơ “Chương Sông,” ta thấy, ngay khi bước vào dòng thơ thứ nhất của bài lục bát thứ năm này của họ Hoàng, đã thấy xuất hiện nhiều những dấu chấm, phết… tưởng như… “bất thường” của tác giả tên tuổi này. Bởi vì ông không hề vô tình, ngẫu nhiên, “để rơi” những dấu chấm, phết ấy trong thơ của ông, mà nó là sự cố tình mang lại cho nhịp chảy của thơ ông, cách ngắt nhịp (“repunctuation) khác. Chúng giống như những nhịp chỏi (syncope, đảo phách) trong âm nhạc vậy.

Trở lại với “Chương Sông” của Hoàng Xuân Sơn, cụ thể với hai câu lục bát mở đầu, họ Hoàng viết:

“đi đi
mây phất tang. Đâu
còn chi mong, ngó
sầu âu một mình”

Ở câu 6, sau chữ thứ 5, tác giả đã dùng một dấu chấm không chỉ như một cách ngắt nhịp mới, mà, dấu chấm ở đây, còn cho thấy câu thơ đã có thêm cho nó một mệnh đề độc lập (bắc qua câu 8):

“Đâu còn chi mong (phết) ngó sầu âu một mình.”

Khi dùng dấu phết giữa hai chữ “mong, ngó” một loại từ kép (hay từ ghép) rất thường có trong ngôn ngữ Việt, ngoài việc chẻ chữ cho nghĩa thêm rõ, nó còn làm bật lên sự hiện hữu của chữ thứ hai trong từ kép này, khi ta bị bắt buộc phải ngưng thở trong vài giây…

Tưởng cũng nên nhấn mạnh, theo lối viết của văn phạm cũ, thì các tác giả xưa, nếu có dùng dấu phết cho một câu thơ 6 hay 8 chữ của mình, hầu hết đều hạ dấu phết ở những chữ chẵn (2, 4, 6…) chứ không ai đánh xuống nơi thứ tự của những chữ lẻ (5, 3) như hai câu thơ của họ Hoàng mà tôi đã trình bày ở trên.

Du Tử Lê

(Còn tiếp một kỳ)-*Tựa bài do NN đặt-

 ……………………………………………………

Khắc khoải chữ, nghĩa của Hoàng Xuân Sơn

Du Tử Lê/Người Việt -May 18, 2017

Tập thơ “Huế Buồn Chi” của nhà thơ Hoàng Xuân Sơn. (Hình: Du Tử Lê cung cấp)

(Tiếp theo và hết)

Khắc khoải chữ, nghĩa của Hoàng Xuân SơnKhông như một số nhà thơ, do mặc cảm hay thiếu tự tin, không những từ chối xu hướng đổi mới hình thức bằng cách sử dụng dấu chấm, phết mà còn bài bác sự đổi mới này. Mặc dù, sau một thời gian biếm nhẽ, họ đã lặng lẽ đi theo nỗ lực ngắt nhịp, cho thơ, văn của họ những nhịp chảy khác.

Có người còn “đi xa” hơn khi sau mỗi chữ lại hạ một dấu chấm – mà không cần biết đó là từ đơn hay từ kép, khiến cho sự ngắt nhịp ấy, trở thành vô nghĩa, nếu không muốn nói là khôi hài, lố bịch!

Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn chẳng những thoải mái bước vào cuộc chơi đổi mới hình thức, để nắng, gió trong thơ ông là một nắng, gió khác; thiên nhiên trong thơ ông, cũng là một thứ thiên nhiên được ông mặc khoác cho nó, một chiếc áo mới… Ngay cả những câu thơ tình (ít thôi) của ông, khi được ông viết trong tinh thần tạo dựng một cảm thức mới, cũng là những câu thơ thoát khỏi dòng chảy cũ.

Trả lời câu hỏi của nhà báo Lê Quỳnh Mai về những dấu chấm (.), phẩy (,), gạch ngang (-), gạch chéo (/)… trong một bài thơ của mình, có phải dụng ý họ Hoàng là tạo hình? Hoàng Xuân Sơn cho biết: “…Tất cả những lối sử dụng dấu chấm, phẩy, gạch ngang, gạch chéo… đều có dụng ý thay đổi tiết tấu, hình tượng, nghĩa ngữ của câu thơ, tạo cho người đọc một cảm giác khác. Hay nói như Du Tử Lê, khiến bạn đọc trở thành đồng tác giả. Tôi cũng có nhiều bài thơ xài dấu chấm (như lối làm thơ của Nguyễn Xuân Thiệp, Nguyễn Thanh Châu, và mới nhất của Đài Sử trên mạng Gió-O…).”

“Ví dụ: ‘Ở đây. môi nhón tâm từ/ nấc trong tiếng nhẹ thừa dư huyệt đời/ cái nống chiều. nắp đậy hơi/ thoát bung một nỗi rụng rời vô vi/ cởi trao nhau áo vàng quỳ/ ngón tay thiếu nhẫn làm chi đang tình/ bây giờ tôi ở cô minh/ đỉnh phong. tiếng hú. và rình rập em’ (trích “Buồn Ở Động Tào” của Hoàng Xuân Sơn)” (nguồn Wikipedia-Mở).

“Theo tôi, việc sử dụng bất cứ hình thức nào mang tính sáng tạo cho thi ca cũng đều đáng xiển dương cho dù là thơ tạo hình, thơ cụ thể, chụp chép… Sự đánh giá là từ phía người thưởng ngoạn, và do thời gian gạn lọc…” (Bđd)

Trả lời một câu hỏi khác của Lê Quỳnh Mai về lý do Hoàng Xuân Sơn không (hay rất ít) có thể về tình yêu trai, gái đúng nghĩa, họ Hoàng giải thích: “…Thơ tình? Thì thi nhân tập sự nào chẳng bắt đầu bằng dăm ba bài tình thơ! (không phải là ‘Tình Thư Của Lính’ đâu nhé!).”

“Cái ‘thuở ban đầu lưu luyến ấy’ tôi cũng có mày mò nặn óc mần những bài thơ thuộc loại tình cảm ướt át, nhưng thấy không xong (không có năng khiếu, hoặc giả không trải qua những cuộc tình ‘vật vã khôn nguôi’) nên đành thôi.”

“Nhận định như Võ Phiến: Văn học miền Nam Việt Nam thiếu những sáng tác về tình yêu nam/nữ đích thực. Nhận định này khá trung thực, nhìn lại chặng đường sáng tác của những tác giả miền Nam Việt Nam, cho dù có viết về tình yêu, cũng lồng trong khung cảnh thời chiến, thấp thoáng bóng dáng của chiến tranh; của niềm sinh ly tử biệt. Hoặc thơ văn viết về thân phận con người, về triết lý nhân sinh, hoặc viết theo trào lưu hiện sinh…”

“Văn-thi nhân viết về tình yêu thơ mộng nam/nữ đích thực rất hiếm hoi, có thể đếm trên đầu ngón tay. Bên thơ có Hoàng Anh Tuấn, Nguyên Sa, Hoàng Trúc Ly, Phạm Thiên Thư, Du Tử Lê, Nguyễn Tất Nhiên, Mường Mán, Hoàng Lộc (chung tình cho tới giờ phút này), Trần Mộng Tú (cả văn lẫn thơ)…”

“Bên văn cũng thế, ngoài một Hoàng Ngọc Tuấn viết thuần chất về tình yêu, ta còn có Nguyễn Thanh Trịnh, Nguyễn Đức Nam, Dung Sàigòn & Võ Hà Anh (?), Nguyễn Thị Minh Ngọc, Từ Kế Tường (thỉnh thoảng)…; hoặc viết về tình yêu pha lẫn mùi vị triết lý nhân sinh, hiện sinh như Trùng Dương, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Hoàng, Trần Thị NgH… Đâu có nhiều phải không chị?”

“Lan man thêm một chút về cái sự vụ ‘vì đâu Hoàng Xuân Sơn không làm thơ tình?’ Chẳng qua là bị, là tại, là vì ‘Cái Sự Cô Đơn Ngút Ngàn’ của đời hắn. Bởi lẽ thế mà hắn được bạn bè gắn cho nhiều danh hiệu khác nhau. Võ Đình: ‘…Nếu tôi phải gán cho thơ Hoàng một chữ thì tôi sẽ nói đó là một tiếng thơ ‘Cùng Cực Cô Đơn’ [trích lời bạt, tập Viễn Phố].'”

“Vĩnh Hảo: ‘Thơ ông buồn vời vợi. Buồn từ trong buồn ra. Buồn từ ngoài buồn vào. Ở đâu cũng thấy buồn. Thảng hoặc có vài nơi ông đùa bỡn một chút, cũng vẫn thấy buồn thấm thía thế nào ấy. Đùa cho người ta buồn rơi nước mắt… (trích mạng VinhHao.com, phần Đọc Thơ).'”

“Hoặc như Nguyễn Vy Khanh: ‘Vì cô đơn nên nguồn thơ Hoàng Xuân Sơn luôn luôn đi tìm sự đồng cảm của người khác.'”

“Lương Thư Trung: ‘Lục Bát Hoàng Xuân Sơn là một chỗ về của bạn bè… tưởng chừng như thiếu nguồn cảm hứng từ bạn bè, ông không còn làm thơ nổi.'”

“Một thân hữu khác: Nguồn thơ cô tịch của ông giống như một người làm thơ cùng tên – Nguyễn Đức Sơn, người nuôi lửa tịch mịch…”

“Nguyên ủy vì đâu có sự chọn lựa cô đơn? Trong thao tác văn chương, mỗi người đều muốn đi tìm một phong cách viết riêng cho mình, khởi đầu, như một cây gậy dò đường. Lâu dần, sự chọn lựa được bồi đắp, trở thành chất liệu đặc thù, một loại dấu ấn tự phong. Dấu ấn của hắn, Hoàng Xuân Sơn, chính là sự cô đơn cùng tận! Đã cô đơn thì khó nói chuyện tình yêu nam nữ. Họa chăng, chỉ có sự luyến thương một chiều, đơn phương như ông ca sĩ Tuấn Vũ ông ổng hát ngày nào: ‘…Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn.'” (Nđd)

Tuy nhiên, nói về cõi-giới thơ Hoàng Xuân Sơn mà không nói về chủ tâm mang vào trong thơ những danh từ địa phương, qua thi phẩm “Huế Buồn Chi” của ông, tôi cho là một thiếu sót đáng trách.

Nhận định về “Huế Buồn Chi” của họ Hoàng, một số tác giả đã ghi nhận như sau: “‘Huế Buồn Chi,’ thi tập thứ nhì của Hoàng Xuân Sơn ấn hành năm 1993, là một tập thơ về xứ Huế, dành riêng cho Huế; nơi mà tác giả đã trải qua những năm tháng ấu thời cho đến lúc trưởng thành.”

“Viết về Huế là viết về một vùng trời kỷ niệm, có hạnh phúc, mộng mơ, có yêu thương, khổ đau và hoan lạc trộn lẫn. Nói như nhà văn Trần Doãn Nho (Huế): Đọc ‘Huế Buồn Chi’ có thể đọc riêng đơn vị từng bài, hay đọc toàn tập như một tổng thế cũng không ra ngoài sợi chỉ xuyên suốt: Tâm-Thức-Đặc-Thù-Huế.”

“Bởi vậy thưa chị Quỳnh Mai, nói ‘Huế Buồn Chi’ để lại nhiều ấn tượng cho độc giả, e rằng chỉ có tầng lớp độc giả đồng hương với người viết (điều này chứng thực khi ra mắt ‘Huế Buồn Chi’ tại Montreal, Canada, hết 90% khán thính giả là người Huế lặn lội tuyết giá đi ủng hộ phe ta, ‘phe mền’).”

“‘Huế Buồn Chi’ được hình thành trong vòng ba tháng sau Một-Cơn-Nhớ-Quê-Bồng-Bột, lúc kẻ này đang đi khuấy hồ dán sách trong một hãng xưởng lao động. Hình tượng, ý và lời trong ‘Huế Buồn Chi’ cũng không thoát ra ngoài phương ngữ Huế mà ngờ rằng chỉ có người địa phương mới thâm hiểu được?”

“Cho dù các bạn văn đã ưu ái nhận xét: ‘Trong ‘Huế Buồn Chi,’ Hoàng Xuân Sơn sử dụng phương ngữ Huế một cách tài tình, khiến cho những độc giả dù không sinh trưởng ở Huế cũng lấy làm tâm đắc (Phạm Xuân Đài).'”

“Hoặc như Hồ Đình Nghiêm (cũng Huế) viết trong phần bạt của ‘Huế Buồn Chi’: ‘…Nhà thơ họ Hoàng là người nặng lòng với Huế… Tôi mong ‘Huế Buồn Chi’ sẽ không chỉ loanh quanh ở sông Hương núi Ngự mà nó còn bước chân qua đèo Hải Vân để xuôi Nam hay sang cầu Hiền Lương mà ngược Bắc. Nó không là ‘văn chương miền Trung’ mà nó phải là một cái gì hơn thế.'”

“Anh Võ Đình (Huế rặt) thì cứ ngâm nga bài thơ ‘Huế Buồn Chi’ trong tập thơ này bất cứ khi nào có dịp. Và nhà văn Túy Hồng (rất Huế): ‘Theo tôi, ‘Huế Buồn Chi’ là một trong những tập thơ hay nhất ở hải ngoại!’… Đó, chị thấy chưa: Toàn ‘Huế’ phe mền không hà (ngoại trừ anh Phạm Xuân Đài – Quảng Nam Đà Nẵng, láng giềng me mé)…'” (Nđd)

Tuy chỉ mới xuất bản ba thi phẩm, nhưng bằng vào tâm thái của một thi sĩ, người không ngừng thao thức di tì chữ, nghĩa tốt nhất, cho thơ của mình, Hoàng Xuân Sơn đã in đậm dấu ấn thơ ông trong sinh hoạt thi ca Việt Nam, trong trên dưới nửa thế kỷ qua.

Du Tử Lê

(Calif., May 2017)

………………………………………………..

Fwd: Tr : Fwd: Truyen ngan: Thư cho người bạn già
Hau Nguyen to:

> Subject: Truyen ngan: Thư cho người bạn già
>
> thu cho ban giaGần ba mươi Tết rồi mà anh em Hà chẳng buồn sửa soạn nhà cửa hay mua sắm các thứ để đón Xuân như mọi năm.
> Còn lòng dạ nào để nghĩ đến Tết nhất khi mà bố cô đang đau liệt giường và bịnh viện đã gửi trả về nhà để chờ chết chứ. Cô rươm rướm nước mắt chực khóc khi nghĩ đến mẹ. Giá mẹ còn sống có lẽ bố cô không đến nỗi mải mê, miệt mài làm việc ngày đêm đến quên cả lo lắng cho sức khỏe của mình. Chẳng phải Hà không lo chăm sóc bố đầy đủ, chỉ tại cô bất lực trong việc ngăn cản bố làm việc quá mức thôi. Khi Hà khuyên can bố chỉ bảo:
> “Đến tuổi này rồi sống chết không còn quan trọng nữa con ạ. Nếu làm được việc gì có ích cho người đời thì đó là niềm vui của bố.”
> Hồi mẹ còn sinh tiền, lúc nào trong nhà cũng tấp nập bạn bè của bố ở các nơi tới lui, thăm viếng hoặc hội họp thật vui vẻ. Mẹ luôn chu đáo, nhiệt tình và niềm nở với tất cả mọi người , ngược lại họ cũng rất quý trọng và thương mến mẹ. Sau này mẹ mất rồi thì thỉnh thoảng cũng có người ghé qua nhưng không ở lâu và không vui nhộn như xưa nữa. Trong số đám bạn của bố, người nào Hà cũng mến, đặc biệt phái nữ thì Hà thích và mến nhất là cô Hoàng Mai. Cô đẹp, tế nhị, hiền hòa, điềm đạm, dí dỏm và có óc khôi hài. Cô cũng có cùng sở thích về nghệ thuật, văn chương, hội họa và viết lách như bố. Có một lần – sau khi mẹ mất được mấy năm – cô Mai ghé thăm bố cùng với mấy người bạn khác. Lúc tiễn cô về rồi, thấy bố buồn buồn, Hà gợi chuyện thăm dò:
> “Cô Mai đẹp và dễ thương quá bố nhỉ. Giá cô ở chơi lâu lâu một tí thì vui biết mấy.”
> Bố trầm ngâm một lát rồi trả lời:
> “Yêu bố – không ai bằng mẹ con. Nhưng hiểu bố thì chẳng ai bằng cô Mai cả.”
> Lúc ấy Hà chỉ nghĩ là vì bố cảm thấy lẻ loi, cô đơn nên cần người bậu bạn. Mãi sau này khi hiểu rõ bố nhiều hơn, hiểu đời sâu rộng một tí và nhìn thấy sự tương kính, quý trọng lẫn nhau giữa bố và cô Mai ra sao rồi Hà mới thấm thấu câu nói của bố. Mới hiểu rằng tình vợ chồng tuy thiêng liêng, cao quý, nhưng tình bằng hữu cũng không kém phần quan trọng trong đời sống của mỗi người. Người phối ngẫu đầu ấp tay gối chưa hẳn là người tri kỷ với mình và ngược lại người bạn tâm giao không nhất thiết phải là người vợ hay chồng mới có được sự đồng cảm.
> Thấy bố đang thiêm thiếp ngủ, Hà chạy vội ra đầu ngõ để lấy thư vào nhà. Đa số là báo quảng cáo, một số thiệp chúc Tết, mẫu hàng biếu không, thư đòi nợ… Từ trong đám hỗn độn này rơi ra một phong thư bé bé xinh xinh màu xanh da trời, bốn bên rìa được bao bọc bởi những sọc ngắn, xanh chen đỏ, nằm xiên xiên và song song nhau trông thật vui mắt. Lâu lắm rồi Hà không thấy loại phong bì này. Tò mò nghé mắt nhìn lướt trên bì thư với nét chữ mềm mại, đều đặn như được nắn nót thật kỹ, lần tới tên và địa chỉ người gửi bên góc trái Hà bỗng phì cười:
> “Thì ra của cô Hoàng Mai! Sao cô không gửi qua email mà lại viết thư thế này cho lâu lắc, nhiêu khê”.
> Vừa buột miệng xong thì Hà cũng chợt nhớ ra thời gian gần đây bố cô không còn hơi sức ngồi làm việc hay kiểm điện thư qua máy vi tính như trước nữa. Ôm chồng thư vào nhà và ngồi xuống chiếc ghế cạnh đầu giường bố, Hà lật qua lật lại phong thư, phân vân không biết có nên đọc thư riêng cho bố nghe không. Dạo này bố cô rất yếu, ít nói năng và cử động. Khi Hà hay Khang – anh lớn của Hà – muốn hỏi chuyện với bố thì đặt câu hỏi, bố nhắm mắt nếu ông muốn trả lời không, và chớp mắt nếu có hay đồng ý. Thoảng hoặc lắm bố mới gắng nói vài câu ngắn gọn cần thiết mà thôi. Một lát sau thấy bố mở mắt ra, Hà cầm phong thư đưa trước mặt ông và hỏi:
> “Bố ơi, có thư của cô Hoàng Mai gửi cho bố nè. Bố có muốn con đọc cho bố nghe không?”
> Hà thấy bố chớp mắt lia lịa như đang nôn nóng, cô vôi lấy dao rọc phong bì và kéo ra một sấp giấy màu xanh thật mỏng, mềm mại và thoang thoảng mùi thơm nhẹ. Đây là loại giấy viết thư của thời xửa thời xưa, bây giờ không thấy ai dùng tới nữa.
> Ngày… tháng…năm…
> Anh bạn già thân mến,
> Tôi biết giờ này – như mọi năm – anh đang nóng lòng trông ngóng thư từ, bài vở bạn bè bốn phương gửi về để kịp lên báo Xuân như thói quen lâu nay, dù anh đang nằm trên giường bịnh. Tôi cũng biết bọn mình từng đứa đã lần lượt gác kiếm, đau lòng xót dạ mà giã từ cái máy vi tính thân thương luôn sát cánh bên mình bao năm qua. Cái vật vô tri vô giác này cũng là bạn chí thiết, từng giúp mình vượt bao giai đoạn khó khăn trắc trở, là người tri kỷ trung thành không quảng ngại chia sẻ với mình bao nỗi cô đơn, buồn tủi, nhọc nhằn. Cho nên, tôi gửi anh phong thư lối cổ điển thuở học trò này, theo đường chim bay, theo gió mây ngàn đưa đẩy với niềm tin hy vọng anh sẽ đón nhận nó trước ngày giờ bước lên chuyến tàu tốc hành về nơi yên nghỉ thật sự.
> Anh còn nhớ đôi khi bọn mình nói chuyện với nhau về ý nghĩa của sự “YÊN NGHỈ” không? Mỗi đứa một định nghĩa riêng, một quan niệm khác biệt. Riêng tôi với anh thì cùng chung ý kiến cho rằng ngày nào mình buông suôi tất cả là ngày đó mình mới được yên nghỉ. Nhưng quả thật “buông” được là khó vô cùng. Cả cuộc đời mình vật lộn với sinh kế, với nhu cầu vật chất, tình cảm và tinh thần, với bao thăng trầm đổi thay của xã hội, với sự tàn khốc của nhân loại, khắc nghiệt của thiên nhiên. Nghĩ lại xem có phút giây nào dám yên nghỉ đâu? Khi vừa thoát ra được hệ lụy này thì lại vướng vào vòng hệ lụy khác. Cứ thế mà ngày qua tháng lại cho tới giờ này, còn chút sức lực vẫn đem ra tận dụng đến phút chót. Anh nói không phải sao? Mắt mờ, lưng còng, cơ thể nhức mỏi triền miên, chân tay tê cứng, vụng về… Vậy mà hằng đêm vẫn thức trắng để tuyển lọc bài vở gửi đến, nắn nót từng câu văn, trau chuốt từng ý tưởng cho đoạn văn được tương đối hoàn hào hơn, toan tính, sắp xếp thế nào cho đẹp mắt và thích hợp với trang web, cuốn sách, tờ báo… Đầu cổ bơ phờ, tâm thần mệt mỏi, từng ngón tay rã rời, vậy mà vẫn cố gắng sử dụng bắp thịt để gõ vào keyboard cho nhanh nhẹn hơn, vận động gân cốt để xoa con chuột cho lẹ hơn. Chẳng ai bắt tội mình làm vậy phải không? Chỉ tại mình chưa muốn nghỉ ngơi. Nếu có đau ốm thì nằm đó mà cứ trông sao cho chóng lành để rồi lại tiếp tục công việc bỏ dở. Đuối sức lắm chứ. Mệt mỏi lắm chứ. Nhưng lỡ sinh làm kiếp tằm nên phải tiếp tục nhả tơ cho đến chết thôi.
> Như vậy hóa ra “chết” chỉ là ở vào trạng thái “tĩnh”. Là hoàn toàn nghỉ ngơi thực thụ. Tôi nghe dường như trạng thái này rất quen thuộc và gần gũi với ước muốn của mình lâu nay. Như vậy tránh né nó làm gì. Hãy đón nhận và xem như đây là một giai đoạn chuyển tiếp từ trạng thái này sang trạng thái khác. Từ đang thở trở thành ngừng thở. Từ đang sinh động trở thành bất động. Từ đang vất vả cực khổ trở thành thảnh thơi, nhàn nhạ. Giống như con tằm biến thành con nhọng và an hưởng thanh bình trong cái kén cho đến khi thay hình đổi dạng vậy. Nói một cách khác, ở vào tuổi nào đó, mình có thể sẽ rơi vào giao đoạn “chuyển kiếp” không chừng. Sau đó thế nào thì mình cũng chẳng cần bận tâm làm gì chuyện xa xôi ấy. Phải không anh bạn già chí thiết? Có điều đừng quên nhé, dù ở kiếp nào thì cũng cứ cầu mong nhóm bạn già chúng mình vẫn sẽ tái hợp lại đầy đủ như xưa đấy.
> Thật ra thì nhóm bô lão mình gắn bó lâu nay cũng chỉ như mọi nhóm khác. Cũng có những chuyện vui buồn từ thuở đi học, đi dạy chung, đi tù đày hay lưu lạc tha phương bao năm qua được đem ra kể lể, nhắc tới nhắc lui, lập đi lập lại hằng tỉ lần mỗi khi họp mặt đông đủ. Rồi thì chuyện mới chồng chất lên chuyện cũ. Chuyện hay lẫn lộn chuyện dở. Chuyện vui lấp liếm chuyện buồn. Vậy mà chuyện nào được nhắc lại cũng mới nguyên si như vừa xảy ra. Chuyện buồn có bạn bè chia sẻ cũng trở thành chuyện vui. Ừ, mà lạ thật, đứa nào cũng bao lần lên voi xuống chó, ba chìm bảy nối chín cái lênh đênh, bầm dập tim gan, tan tác cõi lòng, thế nhưng hễ gặp lại cả bọn dường như quên hết thế sự. Chỉ còn nhớ, thấy và cảm nhận cái tâm trạng trẻ trung, vui nhộn, sinh động như đang sống vào thời điểm của quãng đời vàng son dưới mái trường mình đang học hay đang dạy chung vậy. Và đứa nào cũng trở về y nguyên bản chất xa xưa, cá tính cũ. Vẫn phá phách, chọc ghẹo, tiếu lâm, khôi hài… dù trên đầu tóc đã có muối nhiều hơn tiêu rồi.
> Tôi đoán có lẽ con gái ngoan đang đọc thư này cho anh. Nghe đến đây anh đã thấm mệt chưa? Thấy ngán ngẫm cái lối viết văn lòng vòng, lẩm cẩm của bà bạn già này rồi chứ? Chẳng sao. Đến tuổi này rồi thì nhớ đâu viết đó, nghĩ sao ghi xuống vậy. Lượm được cái gì vụt đến từ trong ký ức thì cứ bỏ vội vào trang giấy ngay kẻo lại quên nửa chừng. Anh đừng chổi dậy để lo sửa chữa cách hành văn lủng củng, luộm thuộm của tôi. Vô ích, vì sẽ chẳng có ai đọc nó cả. Cũng đừng vội bỏ cuộc. Chưa hết đâu. Hãy nghe tiếp. Tôi sắp sửa đòi nợ anh đó. Anh còn nhớ anh đã hứa gì với bọn này trong kỳ họp mặt lần cuối không?
> Ngày đó bạn bè mình và học trò cũ từ bốn phương tề tựu về thật đông đủ. Quả thật trái đất rộng lớn bao la cũng thu lại thành gần, bầu trời tuy mênh mông nhưng cũng thành nhỏ hẹp vì ý chí ước muốn tìm về với trường xưa bạn cũ. Khung cảnh lạ, tha hương buồn, nhưng thâm tình cùng thân hữu vẫn bền chặt như xưa, lòng nhiệt thành với bạn bè vẫn nồng ấm thiết tha đầy ắp như thuở nào. Thật cảm động, thật vui mừng bồi hồi vì không ngờ trải bao thăng trầm, xa cách mấy mươi năm mà còn cơ may gặp lại. Rồi thì hẹn nhau gặp tiếp, gặp tiếp, lại gặp tiếp… ở nhiều nơi khác. Không ngờ đi đến đâu anh cũng có thật nhiều bà con họ hàng xa gần, bạn bè cố tri lâu năm đông đảo. Hết người này lại đến người khác tiếp tục mời mọc đãi đằng anh, vì tình thân thuộc, vì nghĩa bạn bè tri âm, vì nợ ân tình, vì nợ miệng và v.v… Anh không thể bỏ rơi đám bạn bè nên buộc lòng họ phải thầu luôn gánh hát bồ tèo bám theo anh. Rốt cuộc bọn này luôn được những bữa ăn chực thịnh soạn vì dựa hơi anh. Rồi thì bọn này bầu anh làm chủ cái bang chuyên đi xin ăn miễn phí để theo ăn ké. Ngoài cái vui nhộn vì bản chất hãy còn phá phách, trêu chọc nhau, thực ra từ trong thâm tâm, bọn tôi vô cùng cảm phục anh. Vì anh ăn ở với mọi người đầy tình nghĩa thâm sâu cho nên họ mới quý trọng, mến thương, tha thiết và chí tình chí nghĩa với anh như vậy. Lần nào chia tay anh cũng hẹn gặp nhau kỳ tới để anh kéo bọn mình đi ăn chực tiếp. Anh còn nhớ hay quên?
> Giờ bạn bè cũ trong đám rơi rụng dần, kẻ già lụm cụm, đứa đau ốm liên miên, người nào may mắn còn đủ hơi sức hơn thì cố gắng đi thăm người yếu. Cơ hội xum họp đông đảo như trước gần như không thể tiếp tục thực hiện được nữa. Có chăng là ở một thế giới xa xôi khác thôi! Nghĩ cho cùng, tuổi đời chồng chất thế này rồi, có sống thêm vài năm thừa cũng chẳng lời lóm, lợi lộc gì. Mà vài năm thiếu cũng có lỗ lã, mất mát chi đâu? Điều quan trọng, đáng kể nhất chính là cái mình để lại dọc con đường đã đi qua có ý nghĩa, có hữu ích, có đượm đầy nhân nghĩa, nhân tình để làm mọi người chung quanh thương tiếc, nhắc nhở mãi khi mình bỏ cuộc không. Tôi nghĩ anh đã đạt được tới cái đích này rồi đó.
> Anh bạn già ơi,
> Cuối năm nay tính sổ lại, tôi thấy trong đám bạn bè xưa, anh là người thành công hơn tất cả. Đại gia đình cha mẹ, anh chị em sống quây quần hạnh phúc bên nhau. Con cái thành nhân, thành tài. Cơ ngơi vững chắc. Anh làm được đúng công việc mình yêu thích: truyền đạt nghệ thuật, văn hóa, kiến thức, lý tưởng, đạo đức và lòng yêu nước cho người đời. Thử hỏi mấy ai có được cái may mắn này? Đời sống anh luôn được bao bọc, vây quanh bởi tình thương yêu của gia đình, thân quý của bè bạn và sự kính mến của đám học trò xưa. Cái diễm phúc này có lẽ ai cũng phải trân quý lúc còn sống và hài lòng, mãn nguyện lúc nhắm mắt lìa trần.
> Hãy vẫy tay chào tôi với nụ cười hứa hẹn tái ngộ ở thế giới mới vào giờ phút anh quyết buông bỏ mọi lấn cấn quanh mình để đi tìm một sự yên tĩnh nghỉ ngơi vĩnh viễn, anh bạn già nhé. Vợ chồng anh hãy ra đón khi chuyến tàu chót chở bọn tôi đỗ bến cùng. Chừng ấy ta lại tiếp tục kéo nhau đi quấy nhiễu thiên hạ, lại đi ăn chực vòng vòng như xưa. Để anh có dịp trả dứt món nợ tiền kiếp đấy mà. Vui biết mấy. Nhớ nhé!
> Người bạn già trong nhóm những bạn già của anh.
> Hoàng Mai
> Đọc hết câu cuối mắt Hà mờ đi, ràn rụa nước. Cô ngước lên nhìn bố thì cũng vừa kịp bắt gặp nét mặt ông Hy rạng rỡ, tươi hẳn lên, khóe miệng hở ra và một bên môi nhếch lên, ông nở nụ cười vui nửa vời, mãn nguyện. Bàn tay phải với mấy ngón tay xương xẩu hãy còn nhúc nhích như cố gắng vẫy vẫy. Chỉ trong tíc tắc, ông Hy hự lên một tiếng nhỏ rồi quẹo đầu sang một bên và bất động. Hà quýnh quáng định lay ông dậy và gào to:
> -Bố ơi! Bố ơi!
> Khang đứng bên cạnh từ lúc nào, chụp vội tay em gái chận lại và nghẹn ngào khuyên:
> -Đừng em, hãy để bố đi trong niềm hạnh phúc sau cùng.
> Lá thư được thiêu cùng lúc với thân xác còm cõi, hao mòn vì tuổi tác, vì bịnh tật của ông Hy.
>
> Co Hoang
……………………………………………………..

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics