1.'Những Giọt Mực', một tác phẩm độc đáo (DTL)2.Hồn Việt nào cho em(NV)3.Xế chiều rồi ..

‘Những Giọt Mực’, một tác phẩm độc đáo .
Nguồn:nguoiviet.com- August 12, 2016


Nhà văn Lê Tất Ðiều. (hình RFA.org)

Du Tử Lê

(Tiếp theo kỳ trước)

Theo nhận định của một số nhà phê bình thì, bản chất thông minh, óc khôi hài và, nhất là khả năng quan sát tinh nhậy, ngay tự bước khởi đầu, đã là ngọn hải đăng dẫn đường cho sự nghiệp văn chương của Lê Tất Ðiều tới nhiều chân trời thành tựu.

Về những bước khởi đầu sự nghiệp văn chương Lê Tất Ðiều, ký giả Mặc Lâm thuật lại phần trả lời của họ Lê, trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài phát thanh RFA, như sau:

“Từ khoảng 15, 16 tuổi tôi đã bắt đầu viết một số chuyện cho các báo hàng ngày như là viết ‘Mỗi ngày một chuyện’ cho báo Ngôn Luận của ông Hồ Anh. Viết một số truyện cho bà Bút Trà trong phụ trương đặc biệt của báo Sài Gòn Mới.

“Viết một cách nghiêm chỉnh là sau khi có một truyện gắn đăng trên tạp chí Bách Khoa, sau đó có dịp gặp các nhà văn như là ông Võ Phiến; ông chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Bách Khoa là ông Lê Châu. Ðược sự khuyến khích của họ và bắt đầu quen thuộc với không khí văn chương, và lúc này là lúc tôi khoảng 17, 18 tuổi gì đó…”

“Quý vị vừa nghe một vài tự thuật của nhà văn Lê Tất Ðiều trong buổi đầu gia nhập làng báo. Ông nổi tiếng sau đó với nhiều tác phẩm văn chương qua nhiều thể loại, từ truyện ngắn đến tiểu thuyết. Truyện ngắn đầu tiên mang tên ‘Cỏ Hoang’ được độc giả của báo Bách Khoa nồng nhiệt đón nhận đã tạo cơ hội cho ông chính thức bước vào giới văn chương Việt Nam mà lúc đó rất nhiều người mong ước. Tạp chí Bách Khoa có công phát hiện ra nhà văn Lê Tất Ðiều khi cho in tập truyện ngắn đầu tiên của ông:

“Tạp chí Bách Khoa có in cho tôi một tập truyện ngắn nhan đề là ‘Khởi Hành.’ Lúc đó vào khoảng năm 1962-1963…” (Nđd) (4)

Dù tập truyện “Khởi Hành” được độc giả đón nhận và đánh giá cao về phương diện văn chương; nhưng theo tôi, tính nhân bản, tấm lòng đau đáu của họ Lê dành cho tuổi thơ, những mảnh đời kém may mắn, chỉ hiển lộ mãnh liệt, rực rỡ, cảm động khi truyện dài đầu tay, tựa đề “Ðêm Dài Một Ðời” của ông được xuất bản. Nhiều năm sau, năm 1974, họ Lê lại cho ra đời tập truyện tựa đề “Những Giọt Mực” – – Tác phẩm đầu tiên, duy nhất trong 20 năm văn học miền Nam, của họ Lê, được tác giả nhân cách hóa đồ vật một cách thông minh, tài hoa và, cũng không kém phần ý nghĩa cảm động qua cái cái nhìn sâu, lắng của riêng ông. (5)

Tác giả Hoàng Nhất Phương trong một bài viết gửi cho trang mạng Dân Luận, ghi lại dư luận ở thời điểm “Những Giọt Mực” xuất bản lần thứ nhất, như sau:

“Năm 1968 (?) khi tác phẩm ‘Những Giọt Mực’ viết cho thiếu nhi của nhà văn Lê Tất Ðiều phát hành, các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh, toàn thể học sinh-sinh viên miền Nam thuở đó nồng nhiệt đón tiếp, và đã không tiếc lời khen ngợi bút pháp độc đáo của tác giả. Tuyển tập gồm 11 truyện ngắn, lời văn dễ thương, dí dỏm, tinh nghịch, sâu sắc, kể về cuộc đời của từng đồ vật được nhân cách hóa trong ‘Tình Bạn Của Ðôi Guốc, Trung Thu Của Bác Ðèn Xếp, Diều Giấy Mắc Nạn, Tờ Lịch Ðầu Tháng, Những Giọt Mực, Tâm Sự Bác Ðinh Già, Những Mũi Tên Trưởng Thành, Một Chút Anh Hùng, Ô Ðen Ði Du Lịch, Cơn Giận Của Bác Ðồng Hồ, Lão Dao Sắc.’ Dưới cái nhìn sâu thẳm đầy tình mến của Lê Tất Ðiều, mỗi đồ vật đều có đời sống và tâm sự khác nhau. Ông Bàn kêu rên vì ‘cái bệnh mọt ăn trong xương, trong mình ông ngày càng nặng thêm.’ Bác Ðèn Xếp vì muốn cứu cụ Sách đã đốt cháy bản thân, trước khi ‘ngã xuống cùng với ngọn lửa còn cố thều thào… trung thu sang năm các bồ hãy nhớ đến tôi nhé!’ Bác Búa Ðinh bị mọi người coi là lỗ mãng, nhưng bác ấy bảo mình còn lịch sự chán, phải tay thằng Dùi Ðục coi, nó chửi liền. Cõi người ta có bao nhiêu loại nhân cách sang trọng, đớn hèn, đàng hoàng, tệ bạc, tử tế, vô ơn,… hay có bao nhiêu cảm nhận ngon dở, tốt xấu, lành dữ, trọng khinh,… đều hiện hữu đầy đủ trong căn phòng của chú bé học trò.

“Ðộc giả dù ở lứa tuổi nào cũng đều tư lự và xúc động khi đọc ‘Những Giọt Mực.’ Người cảm thương tình bạn của chàng Guốc Gỗ. Người tưởng nhớ bác Ðèn Xếp tốt bụng, hy sinh thân mình. Người nể trọng cụ Sách đầy kiến thức, luôn nói ra những lời khôn ngoan đầy chân lý. Người trân quý tính nết ngay thẳng của ông Bàn. Người kính phục bác Cung Tên can đảm, nhiều kinh nghiệm. Người than vãn giùm anh Diều Giấy không may gặp nạn. Người thích thú trước những lời dõng dạc oai nghiêm như một ông tướng của cây Roi, khi hắn bảo ‘…Thưa quý vị đồ vật trong phòng. Tôi trả thù cho quí vị rồi đó’ Người ngẩn ngơ trước lời của tờ lịch ngày ba mươi mốt nói với tờ lịch ngày mùng một…’ Chú có riêng một buổi bình minh, một buổi trưa, một hoàng hôn và có cả đêm tối. Nhưng chú phải nhớ, phải nhớ kỹ một điều: chú em chỉ được sống đúng có một ngày thôi đấy nhé. Dòng họ chúng ta mang truyền thống ấy. Ðời sống chúng ta rất ngắn ngủi và chính xác. Vậy hãy sống cho ra sống và đừng bỏ phí một giây nào…’ Người khóc vì sự nghiệp vinh quang của ba giọt mực còn đọng lại trong bình, khi ông Bàn sang sảng nói ‘Ba giọt mực cuối cùng đã làm một việc có ý nghĩa nhất: họ đội những đứa khác trên đầu, suốt ngày này sang ngày khác. Nhờ vậy, những giọt đứng trên đầu họ mới bám vào ngòi bút, ra ngoài, biến thành chữ… Vậy ba giọt mực bé tí teo, các cháu có quyền kiêu hãnh. Các cháu đóng góp vào rất nhiều sách vở. Và hàng tỉ chữ, hằng hà sa số hình vẽ trên cõi thế gian này đều mang ơn những giọt mực nằm dưới đáy bình…’ Có thể nói dưới ngòi bút miêu tả sống động của nhà văn Lê Tất Ðiều, mỗi đồ vật đều thể hiện một ‘nhân cách khác thường.'” (Dân Luận, nđd)

Không riêng Hoàng Nhất Phương ghi nhận các bậc phụ huynh cũng nồng nhiệt đón nhận “Những Giọt Mực” như ký giả Lô-Răng/Phan Lạc Phúc. Sinh thời, họ Phan cũng từng ghi nhận:

“…’Những Giọt Mực’ không phải dành riêng cho trẻ con, mà nó còn là đầu đề suy nghĩ cho người lớn nữa.” (Nđd)

(Kỳ sau tiếp)

Chú thích:

(4) Ở đây có sự sai biệt về thời điểm ra đời của tập truyện “Khởi Hành.” Theo chính tác giả thì tập truyện “Khởi Hành” ra đời trong khoảng thời gian 1962-1963. Trong khi trang mạng Wikipedia-Mở ghi là 1961. Cũng Wikipedia-Mở ghi 1968 là thời điểm xuất bản tập truyện “Những Giọt Mực” (cùng năm với tác phẩm “Người Ðá” của họ Lê). Sự thật “Những Giọt Mực” được XB lần đầu, tại Saigon, năm 1974. Tôi trộm nghĩ, tác giả nói về năm tháng ra đời tác phẩm của mình, đáng tin cậy hơn bất cứ một cơ quan truyền thông nào, kể cả trang mạng Wikipedia-Mở.

(5) Thời tiền chiến, chúng ta có “Dế Mèn Phiêu Lưu Ký” của nhà văn Tô Hoài. Ông nhân cách hóa một sinh vật chứ không phải một đồ vật.

……………………………………………………….

                                                                                                          Hồn Việt nào cho em
                                                                           Nguồn:nguoiviet.com- August 10, 2016


(Dựng cờ: hình của nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh)

Trịnh Bình An

Có những cuốn phim sau khi coi xong khiến tôi thích thú hoặc bực bội, nhưng cũng có cuốn phim khiến tôi băn khoăn, dường như vui, cũng dường như buồn, cuốn phim đó chính là phim “Hồn Việt.”

“Hồn Việt” là một bộ phim trình bày lịch sử Quốc Kỳ và Quốc Ca của Việt Nam Cộng Hòa – nơi tôi đã sinh ra và lớn lên cho tới ngày mất nước. Ðấy chỉ là một bộ phim tài liệu với những dữ liệu thực tế. Lá cờ vàng ba sọc đỏ, quốc kỳ của một chính thể đã bị xóa sổ, không ngờ có ngày tung bay phất phới, đứng ngang hàng với những lá cờ quốc gia khác tại nhiều nơi trên thế giới. Ðáng lẽ tôi, một người từng sống trên 10 năm dưới lá Cờ Vàng, phải cảm thấy xúc động và tự hào chứ? Nhưng không hiểu sao tôi chỉ cảm thấy vui buồn lẫn lộn?

Nếu bảo Việt Nam là người mẹ khổ đau qua những năm tháng chiến tranh, thì Việt Nam Cộng Hòa là cha, người cha đã bị bức tử, người cha tôi đã phải xa khi còn tấm nhỏ. Quá nhỏ để hiểu được chiến tranh đang xảy ra khốc liệt chung quanh, quá nhỏ để hiểu đang có rất nhiều người ngày đêm chiến đấu bảo vệ miền Nam, bảo vệ cuộc sống yên ổn cho hàng triệu sinh mạng trong đó có tôi.

Sẽ chẳng ai trách cứ một đứa con gái nhỏ ngượng ngùng với cha nếu nó đã bị lìa xa cha ngay từ lúc nhỏ. Cũng thế, hẳn không ai trách nếu tôi thú thực rằng giờ đây, sau hơn 20 năm trên xứ người, tôi cảm thấy chẳng có mấy rung động trước lá cờ ấy dù lý trí vẫn biết rằng đó là lá cờ Tổ Quốc của mình.

Cho tới khi xem Phim “Hồn Việt,” tới đoạn trình bày về lược sử hình thành Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam, tôi bỗng cảm thấy dâng lên trong lòng một nỗi chua xót xen lẫn giận hờn.

Tôi tiếc ngày ấy đã không được dạy bảo kỹ lưỡng về nguồn gốc Quốc Kỳ và Quốc Ca trong những giờ Công Dân Giáo Dục. Tôi chỉ biết chào cờ và hát quốc ca như một thói quen. Giống như một đứa con, chỉ được người ta chỉ vào ảnh cha mà bảo “Cha con đó!” chứ không giải thích thêm cha là ai, cuộc đời cha như thế nào, cha đang chiến đấu nghiệt ngã trong những hoàn cảnh nào…

May mắn thay, trong đại gia đình dân tộc, vẫn còn những người anh, người chị đã từng sống với cha, đã từng biết đến cha. Những anh chị ấy đã giữ cha trong trái tim họ cho đến cuối đời. Tôi muốn nói tới những người Việt lưu lạc khắp nơi trên thế giới, những người đã kiên quyết giữ vững lá cờ Việt Nam tự do, đã đấu tranh không mệt mỏi để cuối cùng lá cờ ấy tung bay cùng với những lá cờ khác tại nơi họ cư ngụ. Những anh chị ấy đã cống hiến tuổi thanh xuân để xây dựng và bảo vệ miền Nam để những đứa trẻ như tôi được thảnh thơi đến trường. Trên xứ người, những người anh người chị ấy vẫn miệt mài tìm mọi cách gìn giữ những di sản tốt đẹp của đất nước để một ngày nào đó khi chúng tôi-những đứa trẻ đi lạc, muốn quay về sẽ thấy vẫn còn đó mái nhà xưa.

Ngày hôm nay, mỗi khi có những dịp tụ họp đông người, việc chào cờ hay không chào cờ vẫn là một đề tài nhạy cảm, có khi gây tranh cãi. Bên muốn chào cờ cho rằng không thể hưởng niềm vui họp mặt trên xứ sở tự do mà quên đi công lao to lớn của những người đã nằm xuống. Còn bên không muốn chào cờ thì bảo việc cử hành quốc kỳ và quốc ca là nghi lễ trang trọng, nếu làm trong một tiệc dịp tiệc tùng vui chơi sẽ mất đi ý nghĩa và giảm lòng tôn kính.

Cả hai phía đều có lý của họ. Riêng tôi, tôi cho rằng những người thực tâm giữ gìn sự tồn tại của Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam không quanh quẩn trong lý lẽ mà họ chỉ muốn hành động từ tiếng gọi của trái tim.

Nếu không là tiếng gọi từ trái tim, Ðại Tá Phạm Bá Hoa đã không kiên trì sưu tầm mọi tin tức và hình ảnh về các cuộc tranh đấu của người Việt khắp nơi để cho Quốc Kỳ Việt Nam được công nhận tại các thành phố trên khắp thế giới. Mỗi một chiến thắng là một tin vui làm nức lòng người Việt hải ngoại, và là kiểu mẫu cho những nơi khác noi theo, để rồi chiến thắng nối tiếp chiến thắng. Kết quả là cho tới nay, trên đất nước Hoa Kỳ đã có 16 tiểu bang, 8 quận hạt, 103 thành phố công nhận lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ là đại diện của Việt Nam.

Nếu không là tiếng gọi từ trái tim, ông Chu Lynh đã không quyết tâm bắt tay vào việc thực hiện cuốn phim “Hồn Việt” dù biết sẽ rất khó khăn, lấy ý nghĩ từ chuyến đi thăm nghĩa trang Biên Hòa năm 2003. Nhìn tấm bia mộ của một người lính, lá cờ nhỏ bé khắc trên ấy bị đục nát chỉ còn dấu vết lờ mờ, ông đau thắt lòng. Người lính, người đồng đội của ông, cả một đời hy sinh chẳng được gì, đến khi chết chỉ có mỗi lá cờ, vậy mà người ta vẫn nhẫn tâm tước đoạt.

Và nếu không từ tiếng gọi từ trái tim, nhạc sĩ Lê Văn Khoa, người đã đưa âm nhạc Việt Nam đến với thế giới, đã không thể soạn hòa âm phối khí cho bản quốc thiều Việt Nam trở nên sống động tha thiết đến thế. Và những nhạc sĩ Ukraina – những người vừa thoát khỏi địa ngục cộng sản, đã cảm thông, đã bắt nhịp cùng tiếng gọi trái tim ấy để tấu lên một bản quốc thiều hùng tráng gây rúng động lòng người.

Tôi muốn ngừng lại một chút để kể một câu chuyện lý thú về lá cờ hiện nay của nước Nga mà lịch sử của nó có đôi điều tương tợ với lá Cờ Vàng VNCH.

Bắt đầu từ năm 1896, Quốc Kỳ Nga có ba màu: trắng, xanh dương và đỏ. Sau Cách Mạng Tháng Mười 1917, lá cờ ấy bị bỏ đi, thay bằng cờ đỏ búa liềm. Ðến năm 1991, khi chế độ cộng sản tan rã, Liên Bang Xô Viết (Soviet Union) trở thành Liên Bang Nga (Russian Federation), cờ đỏ búa liềm bị dẹp bỏ, người Nga quay về với lá cờ ba màu – (Tricolor) lúc trước.

Có nhiều giải thích cho nguồn gốc ba màu trên quốc kỳ Nga. Một giả thuyết cho rằng đó là huy hiệu trên khiên của vương quốc Grand Ducchy of Moscow. Huy hiệu này có hình thánh Saint George mang giáp bạc, cỡi ngựa trắng, choàng khăn và cầm khiên màu xanh trên nền đỏ. Một giả thuyết khác lại cho rằng đấy chính là ba màu trên khăn áo Ðức Mẹ Maria. Như thế, nước Nga – cái nôi sản sinh ra chủ nghĩa cộng sản, cuối cùng đã quay về với lá cờ truyền thống. Một lá cờ với ba màu hòa dịu, ẩn chứa những niềm tin thiêng liêng, có thể đó là lòng dũng cảm quên mình của Thánh St. George, cũng có thể là lòng từ ái bao la của Ðức Mẹ.

So sánh với lá cờ nước Nga, lá cờ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ cũng có màu sắc hòa dịu với những ý nghĩa nhân ái: Màu vàng tượng trưng cho dân tộc Việt. Ba sọc đỏ là ba miền Nam Trung Bắc. Tuy người dân thuộc ba miền (ba sọc đỏ) nhưng vẫn sống chung một nhà (nền vàng). Dưới mái Nhà Việt Nam, con dân muôn đời thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Màu đỏ trên nền vàng còn là màu của nhiều lá quốc kỳ Việt Nam qua nhiều triều đại khác nhau.

Khi kể câu chuyện nước Nga tìm về lá cờ dân tộc phải chăng tôi muốn nói đến việc phục hoạt lá cờ vàng truyền thống của nước Việt Nam?

Hoàn toàn không. Lá Cờ Vàng đã được chính quyền của một số thành phố và tiểu bang Hoa Kỳ công nhận là “Lá Cờ Tự Do và Di Sản”(Heritage and Freedom Flag). Người Việt tị nạn sau khi nhập tịch là nguyện đứng dưới lá cờ của đất nước thứ hai. Việt Nam tuy vẫn là tổ quốc thân yêu nhưng không còn thuộc quyền quyết định của những người chúng tôi. Việc chọn lá cờ nào, bài hát nào cho Việt Nam tương lai sẽ hoàn toàn tùy thuộc vào một chính phủ và một Quốc Hội không còn cộng sản.

Những người ấy sẽ hiểu biết thấu đáo về lịch sử của những lá cờ để nhìn cho ra lá cờ nào mang “Hồn Việt,” còn lá cờ nào chỉ mang giả trá và thương đau.

Nếu đã nói tới quốc kỳ thì không thể không nhắc tới quốc ca. Nghe ban nhạc Ukraina hòa tấu Quốc Thiều Việt Nam, tôi mới thấy Quốc Ca Việt Nam có giai điệu thật phong phú, khi hùng tráng, khi du dương như một nhắn nhủ thiết tha.

Là một học sinh qua hai chế độ, tôi vẫn không thể quên bài hát Tiến Quân Ca của cộng sản. Nhạc điệu quân hành nhưng khá nhạt nhẽo, chưa kể trong đó có những lời lẽ khát máu đến ghê người. Một ca khúc tầm thường, thậm chí vô nhân có thể nào xứng đáng làm biểu tượng cho một dân tộc lãng mạn và hiếu hòa như người Việt chăng? Nhưng công bằng mà nói, bài hát Tiến Quân Ca có lịch sử riêng của nó và xứng đáng được ghi nhận như ca khúc của một thời. Những người dân Việt trong tương lai sẽ tìm ra quyết định cho quốc ca cũng như quốc kỳ vậy.

Phim “Hồn Việt” ra đời, hai năm tôi sau mới biết, cũng như tôi đã không biết rõ về Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam sau hơn hàng chục năm. Thật khá trễ tràng. Cảm giác buồn vui lẫn lộn, vui vì biết được thêm quá khứ anh dũng của cha anh, buồn vì suốt bao lâu nay lơ đãng trước những hy sinh cao cả ấy.

Mong sao bộ phim tài liệu “Hồn Việt” sẽ giúp cho những thế hệ sau hiểu rõ về quốc kỳ và quốc ca, từ đó thấy rõ tính cách Việt, mơ ước Việt, tâm hồn Việt thể hiện thế nào qua quốc kỳ và quốc ca, để rồi có quyết định sáng suốt về con đường đi tới của dân tộc.

Tổng Thống Woodrow Wilson từng nói: “The things that the flag stands for were created by the experiences of a great people. Everything that it stands for was written by their lives.The flag is the embodiment,not of sentiment, but of history.” (Những gì một lá cờ biểu tượng,đó là những kinh nghiệm đã được tạo dựng bởi một dân tộc tuyệt vời. Tất cả những gì lá cờ biểu tượng đã được viết nên từ chính mạng sống của họ. Lá cờ là hiện thân, không phải của cảm xúc, mà là của chính lịch sử). Qua phim “Hồn Việt” tôi thấy lời của Tổng Thống Wilson thật đúng, Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam thực sự đã được viết nên từ mạng sống của biết bao người con dân Việt Nam kiên quyết chiến đấu vì Ðất Nước,vì Hòa Bình, vì Tự Do. Tôi dù biết điều ấy trễ nhưng vẫn còn chưa quá muộn. Khi hiểu ra được như thế tôi chợt thấy mình tháo gỡ được mối băn khoăn.

Người cha bị bức tử của tôi chưa bao giờ chết. Người vẫn còn đó cùng Lá Cờ Vàng lồng lộng bay trong gió như chuyển trao mọi nỗi bi thương nhưng đồng thời cũng là niềm hân hoan về một Ðất Việt, một Dân Việt, và một Hồn Việt muôn đời.

Tháng 9, 2014

—–

Sơ lược về phim “Hồn Việt”: “Hồn Việt” là một phim tài liệu dài 57 phút về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam do Vietnam Film Club thực hiện vào năm 2012. Phim gồm có 9 đề mục:

– Lược sử hình thành Quốc Kỳ Việt Nam (cờ vàng ba sọc đỏ)

– Lược sử hình thành Quốc Ca Việt Nam-Quốc Kỳ theo mệnh nước (đi theo người tỵ nạn sau biến cố 1975)

– Quốc Kỳ Việt Nam tại hải ngoại

– Quốc Kỳ Việt Nam trên thế giới

– Những câu chuyện về Quốc Kỳ Việt Nam

– Quốc Kỳ trong tim người Việt

– Quốc Kỳ và người ngoại quốc

– Trình tấu Quốc Thiều Việt Nam tại Kiev, thủ đô của Ukraina.

Sơ lược về “Viet Nam Film Club”: Vietnam Film Club [vnfilmclub.com] được thành lập tháng 9 năm 2010 sau một thời gian dài vận động. Nhằm đáp ứng nhu cầu đi tìm sự thật của người Việt, đặc biệt người dân trong nước về lịch sử Việt Nam giai đoạn cận đại, Vietnam Film Club thực hiện các phim tài liệu lịch sử liên quan đến Chiến Tranh Việt Nam, Ðảng CS Việt Nam, và những hệ lụy của cuộc chiến.

Mời xem:

– Hồn Việt – Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam (VFC, 58 phút)

– The Soul of Vietnam – The Vietnamese National Flag and Anthem (VFC, 61 phút)

– Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa – Trailer(VFC, 8 phút). Cuốn phim tài liệu có sự đóng góp cuối cùng của GS Nguyễn Ngọc Bích đang đi vào giai đoạn cuối, dự trù sẽ được phát hành bằng DVD vào tháng 7 năm 2016.

– Nguyễn Ngọc Bích:Tấm Lòng Cho Quê Hương (VFC, 21 phút). Phim thực hiện nhân tưởng niệm 49 ngày mất của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích.

………………………………………………………

Fwd: Xế chiều rồi, ráng giữ sức bà ơi (Thơ hay)
Kim Vu
to:….,me

> Xin mời đọc
> CBT
>
DỄ THƯƠNG MÀ BUỒN

>
>             Xế chiều rồi, ráng giữ sức bà ơi
>
>                      (Thơ hay)
>
>                     Mời đọc bài thơ Xế Chiều…
>                     Dai Nguyen

>
>                     XẾ CHIỀU
>                     ————–
>                     Xế chiều rồi tôi vẫn nắm tay bà
>                     Kể từ khi tôi gọi bà là vợ
>                     Đã đi qua biết bao mùa hoa nở
>                     Những bổng trầm sắc thái của tình yêu.
>                     Xế chiều rồi hai chiếc bóng liêu xiêu
>                     Gợi tôi nhớ về một thời tuổi trẻ
>                     Nắm tay tôi, bà ngượng ngùng thỏ thẻ:
>                     “Người ta chịu rồi, còn hỏi làm chi”.
>                     Xế chiều rồi tôi vẫn nắm bà đi
>                     Dẫu chỉ là những bước cao bước thấp
>                     Nhớ khi xưa tôi nhắc nhiều, bà vấp
>                     Để bây giờ bà khập khểnh bước chân.
>                     Xế chiều rồi tôi thấp thỏm băn khoăn
>                     Mình đông con mà thân già cô quạnh
>                     Chúng giàu sang mà đẩy đùn, tị nạnh
>                     Đòi chia mảnh vườn hương hỏa tổ tiên.
>                     Xế chiều rồi lòng tôi nặng ưu phiền
>                     Mấy thằng con chỉ biết nghe lời vợ
>                     Chúng chỉ mong vợ con không đói khổ
>                     Tôi với bà mấy khi được quan tâm.
>                     Xế chiều rồi, tôi lại nghĩ mông lung
>                     Tôi đi trước hay là bà đi trước
>                     Nhỡ tôi đi rồi, ai dìu bà bước
>                     Tội nghiệp bà sẽ đơn chiếc, lẻ loi.
>                     Xế chiều rồi, ráng giữ sức bà ơi
>                     Tôi chỉ mong mấy đứa con tỉnh ngộ
>                     Chúng học lại những gì trong sách vở
>                     Để đánh vần….”chữ hiếu”…kịp người ta!

………………………………………

(Nguồn: Tác giả gửi qua sangtao@org)

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics