Ghi nhận nào có trong ‘Những Hàng Châu Ngọc’ của Huy Trâm
Nguồn:nguoiviet.com- September 16, 2016
Du Tử Lê
Tiểu sử nhà văn Huy Trâm/Nguyễn Hồng Nhuận Tam cho thấy ông bước vào sinh hoạt VHNT của 20 năm VHNT miền Nam, rất sớm; ngay tự giữa thập niên 1950. Tới đầu thập niên 1960, ông đã có nhiều tác phẩm xuất bản, như tập truyện “Chiều Quê Hương” (XB năm 1963), hay “Lòng Chưa Dâu Biển” (thơ, XB năm 1967).
Tuy nhiên, Huy Trâm không được đám đông biết tới nhiều. Một năm sau, năm 1969 tác phẩm nhận định văn học “Những Hàng Châu Ngọc Trong Thi Ca Hiện Ðại” của ông, được trao giải thưởng văn chương toàn quốc bộ môn biên khảo, tên tuổi Huy Trâm mới thực sự được văn giới và, dư luận chú ý.
“Những Hàng Châu Ngọc Trong Thi Ca Hiện Ðại,” gọi tắt là “Những Hàng Châu Ngọc” (NHCN) (1), là một tuyển tập ghi nhận những cảm nghĩ riêng của họ Nguyễn về tiến trình thi ca trên dưới nửa thế kỷ (tính tới cuối thập niên 1960).
Ở giai đoạn thơ Tiền Chiến, người đọc thấy ông đề cập tới thơ của những nhà thơ như Vũ Hoàng Chương, Huy Cận, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư, Bàng Bá Lân, v.v… Với dòng thi ca miền Nam (sau cuộc di cư 1954), người đọc thấy ông nhắc tới thơ của các tác giả như Ðinh Hùng, Tạ Ký, Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Quách Thoại, Nguyễn Ðức Sơn, Cung Trầm Tưởng, Thanh Tâm Tuyền, Tuệ Mai, Hoài Khanh, v.v…
Tác phẩm vừa kể có tất cả 7 chương; chia theo những chủ đề như: “Thiên nhiên nguồn cảm hứng vô tận,” “Tình yêu và niềm đau khổ,” “Thi ca với mùa màng cùng thời tiết”; “Trở lại thời xưa,” “Những buổi chiều trong thơ”; “Trên sông khói sóng,” “Những đoạn hùng ca”; và, phụ lục “Ðêm vào lòng người.”
Ðặc biệt trong chương “Tình yêu và niềm đau khổ,” Huy Trâm/Nguyễn Hồng Nhuận Tam đã chọn bài thơ tựa đề “Xuân ca” của Thanh Tâm Tuyền, một bài thơ rất ít người biết – – Phản ảnh giai đoạn đầu hành trình thi ca của người làm thơ, sau này được tạp chí Sáng Tạo coi là ngọn cơ đầu của nỗ lực xiển dương phong trào thơ tự do ở miền Nam. Một bài thơ lục bát mà từ nội dung đến hình thức rất gần với ca dao và, đậm hồn tính thơ tiền chiến.
Nguyên văn bài thơ “Xuân ca” của Thanh Tâm Tuyền như sau:
“Trót nghe nửa tiếng cười đùa
Xóm hoa mưa đổ hương xưa nghẹn ngào
Thuở buồn ai đẹp phương nào
Cúi đầu trinh khóc xôn xao trêu người
Yêu nhau không dám ngó trời
Trời xanh mây trắng xuân đời bỏ hoang
Hoa mai nở đón mắt nàng
Mà môi trống lạnh muôn vàn cách xa
Hôm nay muốn gió thành hoa
Muốn mây thành tóc lòng ta rũ cười
Bao giờ trọn vẹn cuộc đời
Ta ôm mây trắng cho trời mãi xanh.”
(NHCN, Huy Trâm, trang 75) (2)
…
Ðó là lãnh vực phê bình văn học. Về thi ca họ Nguyễn, nhà phê bình văn học Cao Thế Dung trong loạt bài “Thi ca và thi nhân,” đề cập tới cõi-giới thơ Huy Trâm, đã viết:
“Thơ Huy Trâm xuất hiện như tiếng nói vang tỏa từ một không trung tươi mát và trong lành. Thơ ông – xét toàn bộ – trong sáng một cách mơ say. Giữa những xáo trộn của thời thế, thơ Huy Trâm tìm về sự an nghỉ. Giữa những xáo trộn của thời thế, thơ Huy Trâm tìm về an nghỉ. Không phải như một an nghỉ thoải mái, tiếng thơ ông dật dờ trong lặng lẽ cùng với nỗi buồn, bay bổng phù du. Một chiếc lá rụng, một điệu ru buồn một đêm mưa, phố vắng cũng đủ làm rung động ngất ngây tâm hồn Huy Trâm, và đi vào thơ ông như tình tự cuộc đời một cách nên thơ, trong trinh – thơ Huy Trâm thoạt nhìn có vẻ cổ mà càng đi sâu vào thi thể, chất thơ càng vang tỏa, thuần nhất, bộc lộ đủ một tâm hồn ước ao bay xa – vượt trên tầm thước nhàm chán của thực tại. Hình ảnh và ngôn ngữ tuy chưa chọn lựa đắn đo, song vẫn chan chứa tình ý thơ – và thơ đối với ông như một viễn ảnh nhiệm mầu. Bài “Về quê em” là một tiêu biểu:
“Từng mái lá bâng khuâng như hò hẹn
Ðón anh về hoa lá khẽ rung rinh (…)
“…Nghe trong gió lời quê em réo gọi
Về quê em cho bớt nỗi tang du
Về quê em nghe lắng mộng sông hồ
Ðất cũng biết đời anh buồn quá lắm” (…)
(Trích “Về Quê Em,” Huy Trâm)
Mời độc giả xem video: Điểm tin buổi sáng Thứ Sáu, ngày 16 tháng 9 năm 2016
“Thơ Huy Trâm không có ý mới – nếu quan niệm theo cái mới theo thời đại bây giờ. Thơ ông giăng mắc trong thế giới vàng son của xưa cũ. Cho nên, từ cách cấu tạo thơ (structure) đến giai âm qua sự phát điệu của ngôn ngữ để hình thành một tiết điệu thơ – Huy Trâm chịu ảnh hưởng sâu xa của các nhà thơ trong trường phái lãng mạn Pháp (Victor Hugo, Lamartine) – cùng với những nhà thơ ta, như Huy Cận, Vũ Hoàng Chương. Xin lắng nghe:
“Lá thư rụng mấy phương trời
Tình thu bàng bạc mấy người quên yêu?
Vàng dâng úa ngập tiêu điều
Ngõ đầy rêu nhạt lối nhiều lá khô
Tình thu ướt cả sông hồ
“Thương em mắt biếc nằm mơ áo hồng” (…)
(Trích “Tình Thu” Huy Trâm) (3)
Tuy đồng cảm với hầu hết những nhận định của họ Cao qua những dòng thơ Huy Trâm mà ông đã trích dẫn; nhưng với 2 câu thơ “Từng mái lá bâng khuâng như hò hẹn” và “Ðất cũng biết đời anh buồn quá lắm,” trích từ bài “Về Quê Em,” tôi cho là 2 câu thơ tương đối mới ở thời đó.
…
Ðó là thơ Huy Trâm/Nguyễn Hồng Nhuận Tam trước tháng 4, 1975. Kể từ năm 1991, tỵ nạn tại Hoa Kỳ, không biết có phải nhờ ông không còn giữ vai trò “thẩm phán công tố” trước tòa, nên họ Nguyễn đã có nhiều thời gian hơn, dành cho việc sáng tác? Tính riêng tại quê người, tới hôm nay, họ Nguyễn đã có thêm 17 tác phẩm được ấn hành (tác phẩm mới nhất là “Dù Có Xa Xôi,” truyện; so với 13 tác phẩm XB tại VN. (4).
(Kỳ sau tiếp)
Chú thích:
(1) Do nhà XB Sáng ấn hành, Saigon, 1969.
(2) Theo tư liệu của nhà thơ Thành Tôn, hiện cư ngụ tại quận hạt Orange County, thuộc miền Nam tiểu bang Cali.
(3) Nguồn: Trang mạng Virgil Gheorghiu, do nhà văn Thế Phong chủ trương.
(4) Huy Trâm/Nguyễn Hồng Nhuận Tam sinh năm 1937 tại Miền Bắc Việt Nam – – (Có tài liệu ghi sinh năm 1936, tại Thái Bình). Ông là cựu học sinh các trường Trung Học Nguyễn Trãi, Hà Nội, và Khải Ðịnh Huế, bắt đầu viết văn từ năm 1954 trên Tạp Chí Ðời Mới (Sài Gòn); sau đó là Bách Khoa, Thời Nay, Bông Lúa, Văn Học… Ông được trao giải văn chương toàn quốc năm 1969 với tác phẩm NHCN. Mặt khác, ông cũng là người sáng lập và là nhạc trưởng chương trình nhạc chủ đề trên Ðài Truyền Hình Việt Nam (1971-1973). Về nghề nghiệp chuyên môn, ông là thẩm phán công tố.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông bị tù cải tạo 7 năm, sau đó, ông lại bị giam giữ thêm 3 năm vì lý do chính trị. Họ Nguyễn đến Hoa Kỳ cuối năm 1991; hiện cư trú tại Quận Cam, Nam California; đã xuất bản 30 tác phẩm đủ loại. Thêm một chi tiết có dễ ít người biết: Huy Trâm/Nguyễn Hồng Nhuận Tam là nội-điệt (cháu nội) của cụ Phó Bảng Nông Sơn Nguyễn Can Mộng, nguyên giáo sư ÐH Văn Khoa, Hà Nội, trước di cư 1954. Ngoài ra, cụ cũng mở lớp dạy Cổ Sử năm 1950, ở phía sau đền Ngọc Sơn (Hồ Hoàn Kiếm). Sinh viên của cụ gồm rất nhiều nhân vật tên tuổi thời đó. Một trong những bài thơ nổi tiếng của cụ Nông Sơn/Nguyễn Mộng Can là bài “Hồng Lâu Nhất Dạ Oán” – – Có những câu như: “Ðêm qua đang lúc sáu giờ/ em ngồi tựa cửa, em chờ đợi ai Bẩy giờ đứng tựa hiên mai/ Ngọn đèn thấp thoáng bóng người xa xa/ Tám giờ lặng ngắm tố nga/ Xuân bao nhiêu tuổi, xuân già hỡi xuân/ Chín giờ dạo gót qua sân/ Trời cao đất rộng xót thân giang hồ…” Ðồng thời cụ cũng có thi tập “Bắc Phương Lòng Son,” viết về chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu, XB năm 1950…
…………………………………………………
“Tiếng hát quay tơ” Mai Hương, nửa thế kỷ tình tự ca
Nguồn:Cát Linh, phóng viên RFA – 2016-09-03
Poster đêm diễn cuối cùng của Ca sĩ Mai Hương ở Montreal, Canada hồi năm 2008.
RFA
“Cành hoa tim tím bé xinh xinh báo xuân nồng
Đượm đà phong kín cánh mong manh tấm hoa lòng
Hà Nội chờ đón tết vắng bóng người đi liễu rũ mà chi
Đêm tân xuân Hồ Gươm sao long lanh
Hoa mai rơi rủ nhau nơi phương xa
Đường phố vắng bóng đèn chạnh lòng tôi nhớ tới người em…” (Gửi người em gái)
Năm 2008, cách đây 8 năm, ở Montreal, Canada, tôi đã hát từ biệt khán giả. Bên Mỹ này thì tôi cứ âm thầm giải nghệ, vì mình không xuất hiện trên sân khấu nữa thì người ta cũng hiểu.
-Ca sĩ Mai Hương
Gửi người em gái của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn – Từ Linh là bài hát được ca sĩ Mai Hương trình bày để từ biệt khán thính giả trên sân khấu Montreal, Canada năm 2008, sau hơn 50 năm, từ ngày bà bước lên sân khấu lần đầu tiên năm 12 tuổi.
“Năm 2008, cách đây 8 năm, ở Montreal, Canada, tôi đã hát từ biệt khán giả. Bên Mỹ này thì tôi cứ âm thầm giải nghệ, vì mình không xuất hiện trên sân khấu nữa thì người ta cũng hiểu. Thời gian phụng sự nghệ thuật đã đủ dài.”
Rất nhiều người đã đề nghị bà có một buổi diễn cuối cùng để từ biệt sân khấu, nhưng bà từ chối. Và đêm diễn ở Montreal, Canada vào dịp 30 tháng Tư năm 2008 đã được xem là buổi diễn cuối cùng.
Từ năm 12 tuổi
Câu chuyện về cuộc đời nghệ sĩ của ca sĩ Mai Hương bắt đầu từ cuộc tuyển lựa tài tử của Đài phát thanh Pháp Á. Bà ghi danh dự thi với sự khuyến khích của thân mẫu là kịch sĩ Kiều Hạnh, thân phụ là Phạm Đình Sỹ, và người cô là danh ca Thái Thanh.
“Năm 1952, 53 gì đó, tôi mới 11, 12 tuổi thôi, ở Hà Nội vào Sài Gòn. Tôi lúc đó được cô ruột là cô Thái Thanh khuyến khích ghi tên vào chương trình thi tuyển lựa tài tử dưới thời ông giám đốc đài phát thanh Pháp Á, chương trình Tiếng Việt là ông Hoàng Cao Tăng, hát bài Chú Cuội của Phạm Duy. Vào đến chung kết mà qua 4 thời kỳ như vậy là cũng không phải dễ. Qua thời kỳ thi tuyển, tôi trúng tuyển ngay. Tuần tự như vậy vào chung kết, cô Thái Thanh tập cho bài Xuân và Tuổi Trẻ của nhạc sĩ La Hối, lời Thế Lữ. Tất cả mọi người ngồi ban giám khảo nói rằng một con bé 12 tuổi hát bài ấy là quá khó, thế là chấm đậu luôn.”
Từ cuộc thi tuyển lựa tài tử năm đó, một chương trình riêng cho thiếu nhi gọi là Thiếu sinh nhi đồng được thành lập gồm ba giọng hát là Mai Hương, Bửu Minh (Anh Minh) và Đào Nguyệt Ánh. Ban nhạc nhi đồng ấy lớn lên theo thời gian và trở thành ban nhạc Tuổi Xanh.
“Đến lúc độ 16, 17 tuổi thì mình hát cũng khá rồi, thế là các ông ấy (trưởng ban Đài phát thanh Sài Gòn) cho lên hát ban người lớn. Từ đó tôi bắt đầu được coi là một trong những ca sĩ thường trực của đài phát thanh. Rồi sinh hoạt của tôi ngày càng mở rộng them. Các ông trưởng ban lúc đó là Hoàng Trọng, Văn Phụng, Y Vân…”
“Bàng hoàng giờ phút từ ly
Tuy lòng đau nhưng cố quên thê nhi
Tần ngần chàng bước chân đi
Ði tới nơi xa xăm bao hình mơ…” (Phút chia ly)
Đến tiếng hát ở Đài phát thanh Sài Gòn
Ca sĩ Mai Hương
Những ca khúc bà trình diễn ở Đài phát thanh Sài Gòn mang nhiều giá trị của thời gian và đòi hỏi sự thấu hiểu nhạc lý vững vàng.
“Năm Mậu Thân, năm Mùa hè đỏ lửa 72, tôi với cô Quỳnh Giao là hai người hát tương đối nhanh và đọc được các nốt nhạc. Các nhạc sĩ làm cho đài phát thanh Sài Gòn có các loại nhạc gọi là nhạc chiến dịch, nghĩa là các trận đánh của quân đội cộng hoà mình đi đến đâu thắng trận thì các nhạc sĩ phải sáng tác ngay để đi sát với thời cuộc. Cho nên phải có ngay ca sĩ để hát. Nhiều khi tôi đang ở nhà thì một trong những người sĩ quan của đài phát thanh quân đội nói rằng phải mời Mai Hương và Quỳnh Giao hát bài này ngay lập tức.
Nếu gọi là một ca sĩ mà không có nhạc lý vững chắc thì ai có thể tập cho mình? Lên đến đài thì ông trưởng ban hoặc nhạc sĩ đưa bài hát đi sát thời cuộc, mắt nhìn nốt nhạc, mắt nhìn lời, hát và thâu ngay lập tức.”
Tháng Tư năm 1975, như hàng triệu người Việt Nam khác, bà cùng với gia đình rời Việt Nam. Từ đó, tiếng hát của Đài phát thanh Sài Gòn bắt đầu cất cao ở xứ người.
Mai Hương bắt đầu đi hát cho những buổi đại nhạc hội hoặc trình diễn ở những chương trình rất chọn lọc như Cung Tiến, Vũ Thành, Lê Văn Khoa, Ngàn Khơi, ban đại hợp tấu và hợp xướng Tiếng Tơ Đồng của nhạc sĩ Hoàng Trọng.
Những nhạc phẩm bà thể hiện mang những nét rất riêng, rất Mai Hương. Tiếng hát thiên phú là đã đành, một lý do khác là do bà rất chọn lọc ca khúc để trình bày.
Khi tôi hát, tôi tự chọn những bản nhạc của những nhạc sĩ tiền chiến mà rất ít người hát để làm kỷ niệm, lưu lại những tác giả, tác phẩm.
-Ca sĩ Mai Hương
“Những bài Mai Hương hát thì ít những ca sĩ khác họ hát. Cho nên khi mình muốn lưu lại một cái gì đó thì mình không hát những bài hát mà những ca sĩ khác đã hát, đã thâu nhiều rồi. Cho nên khi tôi hát, tôi tự chọn những bản nhạc của những nhạc sĩ tiền chiến mà rất ít người hát để làm kỷ niệm, lưu lại những tác giả, tác phẩm.”
Dòng nhạc bà chọn chắc chắn phải phù hợp với chất giọng và những quãng cao rất đặc biệt, rất quyến rũ của bà. Nghe Mai Hương hát một một nhạc khúc về quê hương, có thể nhìn thấy một miền quê yêu dấu đang nhẹ nhàng hiện dần lên trước mắt, gợi cho người tha phương một nỗi nhớ dạt dào.
Nghe bà hát một ca khúc xuân, có thể thấy như nắng xuân đang rộn rã hòa vào da thịt. Mùa thu qua tiếng hát của bà là một bức tranh vàng lá cùng với cái se lạnh của mùa đông.
“Nghe bước chân người sương gió
Xa dần như tiếng thu đang tàn
Ôi người gió sương em mơ thương ái bao lần
Và chờ tin hồng đến
Đem mùa thu chết
Nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng…” (Buồn tàn thu)
“Khi muốn trình bày một bản nhạc nào đó không phải chỉ nhìn lời hát cho qua đi. Mình phải gửi gắm tình cảm, tâm trạng của mình vào bài hát. Khi khan giả, thính giả nghe được thì họ rất cảm thông với các lời và cũng cảm thông với người ca sĩ là nhịp cầu nối giữa nhạc sĩ và người nghe. Không phải mình hát cho qua ngày qua buổi.”
Đúng như tấm lòng của người ca sĩ hơn nửa thế kỷ mang những bản tình ca đến cho cuộc đời, người nghe qua bao thế hệ vẫn nhớ mãi hình ảnh dịu dàng, gần gũi của bà khi bước lên sân khấu.
“Tiếng hát quay tơ” nồng nàn của nữ ca sĩ Mai Hương để lại cho nền âm nhạc Việt Nam những sợi thương sợi nhớ về hình ảnh đất nước những ngày khói lửa chiến tranh, cũng như một quê hương xa ngàn dặm đã thuộc về quá khứ.
……………………………………………………………………….
Fwd: HAI CÂU CHUYỆN THẬT – HAY
Kim Vu to :….,me
>>
>>
>> “O’ HARE”
>> – O’Hare là tên phi trường quốc tế ở Chicago .
>> – Al Capone, 1 tên gangster khét tiếng một thời ở Mỹ.
>> – Easy Eddie là luật sư của Al Capone.
>> Sau đây là 2 câu chuyện thật :
>>
>> Có rất nhiều Quân nhân Mỹ can trường trong thế chiến thứ Hai.Một trong những anh hùng đó là Trung Tá Phi Công Hải Quân Butch O’Hare.Trung Tá O’Hare là Phi Công khu trục tùng sự trên Hàng Không Mẫu Hạm Lexington trong vùng biển khu vực Nam Thái Bình Dương.
>> Chuyện thứ nhất
>> Một hôm toàn thể phi đoàn của ông được giao phó thi hành một phi vụ quan trọng. Sau khi cất cánh và gia nhập đội hình bay, liếc nhìn bảng phi cụ, ông nhận ra có chuyện không ổn, hoặc là đồng hồ báo xăng bị hư hoặc là ai đó không bơm đẩy xăng cho ông. Với tình trạng này, ông không đủ xăng để hoàn thành nhiệm vụ và trở về tầu được. Trung tá O’Hare báo với Phi ĐoànTrưởng và được lệnh phải quay về. Ông miễn cưỡng rời khỏi đội hình của phi đoàn và quay trở lại hàng không mẫu hạm.
>> Trên đường về tầu, bỗng nhiên, trung tá O’Hare thấy một cảnh tượng làm ông dựng tóc gáy: dưới thấp xa xa trước mặt ông là nguyên một phi đoàn oanh tạc cơ của Nhật đang trên đường tìến về hải đội Hoa kỳ. Phi đoàn khu trục của Hoa Kỳ đã bay đi thi hành nhìệm vụ và hải đội không còn ai bảo vệ cả. Dù có gọi, phi đoàn khu trục cũng không thể trở về kịp để cứu và cũng không còn thời gian để báo với hải đội những nguy hiểm sắp đến. Việc duy nhất còn có thể làm là bằng bất cứ giá nào cũng phải xua đuổi phá tan và chuyển hướng đội oanh tạc cơ Nhật.
>> Không còn nghĩ đến an nguy cho mình, trung tá O’Hare lao thẳng vào đội hình đoàn oanh tạc cơ Nhật, với bốn nòng súng 50 ly gắn trên cánh đỏ rực, ông tấn công tới tấp bắn hết chiếc này đến chiếc khác. Đến khi hết đạn, ông vẫn tiếp tục tấn công, liều lĩnh đâm thẳng vào các phi cơ Nhật, cố gắng cắt đuôi chiếc này, hay cắt cánh chiếc kia mong cho họ không điều khiển và bay được. Trong đáy cùng tuyệt vọng, ông làm bất cứ gì có thể làm để các oanh tạc cơ Nhật không đến được hải đội Hoa kỳ.
>> Cuối cùng, đoàn phi cơ Nhật bối rối và chuyển hướng. Thở ra nhẹ nhõm, trung tá O’hare lê lết chiếc máy bay tả tơi của mình về lại hàng không mẫu hạm. Ông báo lại sự việc, chiếc máy quay phim gắn trên phi cơ là bằng chứng hùng hồn nhất.Nỗ lực trong tuyệt vọng để bảo vệ hải đội Hoa kỳ, ông đã hạ 5 chiếc oanh tạc cơ Nhật.
>> Đó là ngày 20 tháng 2 năm 1942. Trung tá O’Hare là phi công Hải Quân đầu tiên trong quân chủng được trao tặng Huân Chương Danh dự của Quốc Hội Liên Bang Hoa kỳ.
>> Năm 1943, trung tá O’Hare tử trận trong một cuộc không chiến lúc ông 29 tuổi. Để không ai có thể quên được người anh hùng này, phi trường của thành phố Chicago , quê hương ông, đã được đặt tên là phi trường O’Hare. Dịp nào đó nếu dừng chân tại phi trường O’Hare, xin hãy đi thăm khu kỷ niệm O’Hare, nhìn tận mắt Huân Chương Danh Dự đã gắn lên ngực áo của ông. Khu lưu niệm này nằm giữa Terminal 1 và Terminal 2.
>> Chuyện thứ hai
>> Hơn mười lăm năm trước đó, tại thành phố Chicago có một người mang biệt danh là Easy Eddie. Trong thời gian này, Trùm tội ác Al Capone hầu như làm chủ thành phố. Capone nổi tiếng không do các hành động anh hùng mà vì các việc làm bóc lột, tàn nhẫn và hung ác. Thành phố Chicago , qua Capone, tràn ngập những nơi bán rượu lậu, các động mãi dâm và các vụ giết người không gớm tay.
>> Easy Eddie là luật sư của Al Capone. Chắc chắn Eddie rất giỏi. Việc rành rẽ và biết lợi dụng các kẽ hở pháp luật của Eddie đã giúp Capole nhởn nhơ ngoài vòng tù tội. Để tỏ lòng biết ơn, Capole trả công Eddie rất hậu. Không chỉ về tiền bạc mà còn chu cấp về tài sản nữa. Chẳng hạn như gia đình Eddie sống trong một lâu đài lớn, kín cổng cao tường và thừa mứa các tiện nghi của lúc đó với kẻ hầu người hạ ngay trong nhà. Lâu đài này lớn đến độ chiếm nguyên một đoạn đường của thành phố Chicago . Dĩ nhiên với cuộc sống giầu có quyền thế của kẻ đương thời, làm sao Eddie có thể nhận và hiểu được những khốn cùng của xã hội chung quanh.
>> Như mọi người, Eddie có một nhược điểm. Có một con trai và Eddie thương con vô cùng. Cậu bé có đủ thứ ở trên cõi đời, toàn những loại thượng hảo hạng: quần áo, xe cộ ngay cả trường học nồi tiếng vì giá cả tiền bạc không thành vấn đề, không gì có thể ngăn cản được. Mặc dù liên hệ chặt chẽ và chìm ngập trong tội ác, Eddie cũng đã có những cố gắng dậy con thế nào là phải và trái.
>> Vâng, Eddie đã cố dậy cậu con trai vượt lên từ cuộc sống nhớp nhúa của chính mình, ước mong con sẽlà người tốt.. Cho dù giầu có và quyền thế xiết bao nhưng vẫn có hai thứ Eddie không thể cho con được, hai thứ mà chính Eddie đã chót bán cho Capone: làm gương và để lại cho con niềm danh dự.
>> Qua nhiều đêm trằn trọc thao thức, Eddie quyết định việc để lại danh dự cho con cần thiết, quan trọng và có ý nghĩa hơn là cho con cuộc sống giầu có với những đồng tiền từ máu và nước mắt của người khác. Phải thay đổi hoàn toàn những việc làm lầm lỡ trước kia, phải báo với chính quyền những sự thật vế Al Capone. Eddie cố gắng rửa sạch những nhơ nhớp trên cái tên của mình, ngõ hầu cho con biết thế nào là trung thực và ngay thẳng.
>> Để hoàn tất mọi chuyện, Eddie phải ra trước toà làm nhân chứng chống lại ông Trùm, biết rằng giá phải trả sẽ không nhỏ. Hơn tất cả mọi chuyện trên đời, Eddie muốn phục hồi tên tuổi mình, hy vọng sẽ để lại cho con tấm gưong và niềm danh dự.
>> Eddie ra trước toà làm nhân chứng, Trùm Al Capone vào tù. Vài tháng sau, Eddie gục ngã trong cơn mưa đạn trên một con đường lẻ loi ở Chicago . Eddie đã để lại cho con trai một món quà lớn nhất trên thế gian này, mua bằng giá cao nhất là sinh mạng của chính mình.
>> Hai câu chuyện này có liên hệ gì với nhau ? Trung tá phi công Hải Quân Butch O’Hare chính là con trai của Easy Eddie.
>> Tôi nghĩ qúy vị cũng ngậm ngùi và cảm khái như tôi khi đọc những dòng chữ này.
………………………………………………………………………………