1.Phật bên hè phố Oakland(VB)&Bản Anh ngữ-2.Khuynh hướng lãng mạn thời phát huy(QG/NV)3.Nhà văn Đào Hiếu(DTL)-

Phật Bên Hè Phố Oakland
Nguồn:vietbao.com-28/09/2014

Trần Khải

He pho 1.jpg1

Câu chuyện được kể lại bởi phóng viên báo SF Gate và đài truyền hình KPIX5: một tượng Phật nhỏ để ở góc phố, nơi đầy dẫy tội hình sự xảy ra, thế rồi trở thành một cái am nhỏ, và tội phạm giảm 82%… Chuyện hy hữu này xảy ra ở thành phố Oakland, Bắc California.

Phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com ngày 15-9-2014, rằng pho tượng Phật đã làm cho một khu phố Oakland bình an.

Dan Stevenson không phải Phật Tử, cũng không phải tín đồ của bất kỳ tôn giáo nào. Anhc hỉ là một cư dân bình thường trên đường 11th Ave., trong khu phố Eastlake của Oakland. Năm 2009, khi vào tiệm bán vật dụng xây dựng Ace, chợt khởi tâm từ bi và đã mua pho tượng Phật cao 2 feet (tương đương 61 centimét) bằng đá, và anh gắn tượng này vào một góc phố trong khu cư dân góc đường 11 và đường 19.

Anh hy vọng rằng tượng Phật để góc phố như thế sẽ làm bình an cho khu phố khét tiếng về tội hình sự này, nơi đủ thứ chuyện mua bán ma túy, sơn xịt, xả rác, bán dâm, cướp bóc, đánh nhau và trộm cắp.

Vậy mà tuyệt vời, theo bài báo SFGate và đài KPIX. Cư dân tới cúng nơi chân tượng Phật: hoa, thức ăn, đèn cầy. Một nhóm phụ nữ Việt Nam mặc áo tràng bắt đầu tới trước pho tượng tụng kinh, câù nguyện.

Khu phố thay đổi lạ kỳ. Dân chúng không xả rác vào góc phố này nữa. Bọn thanh niên ngưng màn sơn xịt các bức tường quanh đó. Các tay buôn ma túy cũng kiếm chỗ khác làm ăn. Các cô gái mãi dâm lẳng lặng tìm nơi tụ tập xa hơn.

Phóng viên Chip Johnson hỏi cảnh sát về thống kê tội hình sự khu phố quanh pho tượng. Kể từ năm 2012, khi quý bà tới tụng kinh hàng ngày, tội hình sự giảm 82%. Các trường hợp cướp bóc giảm từ 14 vụ xuống còn 3 vụ, tấn công từ 5 vụ xuống thành số không, trộm từ 8 vụ còn 4 vụ, ma túy từ 3 vụ xuống số không, và bán dâm từ 3 vụ xuống cũng số không.

Người cảnh sát thống kê nói rằng không thể nói nguyên nhân vì sao, nhưng đó là các số thống kê.

Hồi năm 2009, khi người ta nghe chuyện Stevenson gắn pho tượng, bất giờ nhiều thứ cúng dường tới đặt nơi cửa nhà anh. Nghe y hệt như trong cuốn phim của Clint Eastwood có tựa đề “Gran Torino.”

Stevenson kể, “Người ta để cả tấn trái cây, và thức ăn đặc sản Việt Nam, và kẹo nữa, nhưng chỉ có tôi và vợ tôi tên là Lu đây, và chúng tôi không ăn hết nổi, nhưng chuyện cảm động là vậy.”

Anh nói với nhà báo, “Tôi đã cố gắng giaỉ thích về lý do đặt tượng Phật ở góc phố. Tôi không có gì xúc phạm hết, nhưng tôi không tin những gì quý vị tin.”

Vậy mà anh chàng vô thần Stevenson đã biến đổi cả khu phố.

Bây giờ, cứ mỗi buổi sáng, lúc 7 giờ sáng, các Phật Tử rung chuông, gõ mõ, tụng kinh buổi sáng. Pho tượng nguyên thủy bây giờ được đặt trong một cái am nhỏ xây lên, trong đó có kiến trúc ngôi chùa gỗ tí hon, cao 10 feet (tương đương 3 mét), và trong am này có thêm một số tượng nhỏ nữa, và vật phẩm thờ cúng.

Alicia Tatum, 27 tuổi, nói với phóng viên, “Chỗ này hồi đó bị người ta tới xả rác. Nhưng bây giờ chung quanh là hoa cúng Phật, và cứ mỗi sáng quý bà ra góc phố này tụng kinh.”

Và những ngày cuối tuần, tín đồ tới khoảng hơn một tá người: dân da đen, dân da trắng, đủ sắc dân… theo lời Andy Blackwood, một cư dân gần đó. Mới hai tuần trước, một nhóm du khách Đức quốc tới thăm ngôi đền thờ tí hon này.

Blackwood nói, “Mấy tay buôn ma túy biến đi hẳn rồi, các cô gái giang hồ cũng không thấy tới nữa.”

Ngồi đền tí hon thờ Phật này hai lần đứng vững trước nỗ lực muốn gỡ bỏ: 1 lần là từ dân hình sự, lần thứ nhì là từ chính quyền. Cả 2 lần đều không đẩy được tượng Phật này đi.

Hồi mới gắn tượng Phật ra góc phố, một tên trộm tìm cách cạy tưọng này ra, nhưng Stevenson trước đó đã hàn cứng khung bằng các thanh sắt và đế dán bằng keo tổng hợp trị giá 35 đôla. Thế nên, tượng Phật không hề nhúc nhích.

Rồi vào năm 2012, sau khi một cư dân than phiền, thành phố cho nhân viên xuống gỡ pho tượng, nhưng dân chúng túa ra bảo vệ ngôi chùa tí hon, và các viên chức thành phố quyết định là sẽ “nghiên cứu” thêm chuyện này. Hai năm sau, chuyện này không được chính quyền nhắc tới nữa, và tượng Phật vẫn an vị nơi đó.

Khi phóng viên Chip Johnson tới thăm ngôi chùa nhỏ này, lúc đó có 4 phụ nữ nơi đó, họ không nói hay không hiểu được tiếng Anh, nhưng có vẻ như họ tin rằng Johnson là mới chuyển sang theo Đaọ Phật.

Phóng viên báo SFGate kể rằng khi anh bắt đầu nói, một phụ nữ trong nhóm đó lễ phép lấy cây bút của anh từ một tay, lấy cuốn sổ từ tay kia, và hướng dẫn anh cách chắp tay trước ngực, cúi đầu vái pho tượng và lập laị lời niệm Phật theo phụ nữ này. Anh Johnson cũng làm theo y hệt vậy.

Đám đông nhìn thấy anh chắp tay, niệm Phật như thế… đã “oh… rồi ah”… Phụ nữ kia mới bảo anh Johnson ngồi xuống, xếp bằng trên một chiếc thảm đặt trên đường, và đặt một kệ gỗ với cuốn kinh trước mặt anh Johnson… Anh ngồi như thế và hạnh phúc thấy anh ngồi kiểu giống hệt như Đức Phật. Và anh nghĩ, có lẽ đó là lý do quý bà Phật tử chung quanh ưa thích thấy anh như thế.

Thế rồi, khi anh đưa ra một câu hỏi… và lần này, vị phụ nữ hướng dẫn tâm linh như dường hiểu, và nói mấy chữ tiếng Anh, “Next week.” (Tuần sau nhen.)

Anh Johnson nghĩ rằng anh đã tìm thấy đủ những gì anh tìm… và kết quả là bài phóng sự trên báo SFGate.com.

Hình ảnh ngôi chùa hè phố này ở đây:
http://www.sfgate.com/bayarea/johnson/article/Buddha-seems-to-bring-tranquillity-to-Oakland-5757592.php

======

Buddha seems to bring tranquility to Oakland neighborhood
Chip Johnson
Updated 6:12 pm, Monday, September 15, 2014

He pho 1.jpg1

Vina Vo (left) and Kieu Do pray at sunrise near a Buddhist shrine at 11th Avenue and East 19th Street in Oakland. Photo: Paul Chinn, The Chronicle

He pho 2.jpg1
Vina Vo (left), Lien Huynh and Kieu Do pray at Buddhist shrine. Crime in the neighborhood has plunged since the shrine went up.

Dan Stevenson is neither a Buddhist nor a follower of any organized religion.

The 11th Avenue resident in Oakland’s Eastlake neighborhood was simply feeling hopeful in 2009 when he went to an Ace hardware store, purchased a 2-foot-high stone Buddha and installed it on a median strip in a residential area at 11th Avenue and 19th Street.

He hoped that just maybe his small gesture would bring tranquillity to a neighborhood marred by crime: dumping, graffiti, drug dealing, prostitution, robberies, aggravated assault and burglaries.

What happened next was nothing short of stunning. Area residents began to leave offerings at the base of the Buddha: flowers, food, candles. A group of Vietnamese women in prayer robes began to gather at the statue to pray.

And the neighborhood changed. People stopped dumping garbage. They stopped vandalizing walls with graffiti. And the drug dealers stopped using that area to deal. The prostitutes went away.

I asked police to check their crime statistics for the block radius around the statue, and here’s what they found: Since 2012, when worshipers began showing up for daily prayers, overall year-to-date crime has dropped by 82 percent. Robbery reports went from 14 to three, aggravated assaults from five to zero, burglaries from eight to four, narcotics from three to none, and prostitution from three to none.

“I can’t say what to attribute it to, but these are the numbers,” a police statistician told me.

Back in 2009, when word got around that Stevenson was the person who’d installed the statue, offerings began to appear on his doorstep. It was like a scene straight out of the Clint Eastwood film “Gran Torino.”

“They left a ton of fruit and Vietnamese specialty foods and candy, but there’s only me and my wife, Lu, here and we can’t eat all that stuff – but it’s so good,” said Stevenson.

“I’ve tried to explain to them my reasons” for placing the statue, he said. “I have nothing against it, but I don’t believe what you believe!”

I don’t think it matters to them.

To this day, every morning at 7, worshipers ring a chime, clang a bell and play soft music as they chant morning prayers. The original statue is now part of an elaborate shrine that includes a wooden structure standing 10 feet tall and holding religious statues, portraits, food and fruit offerings surrounded by incense-scented air.

“This used to be a huge spot for dumping stuff,” said Alicia Tatum, 27, on an early morning walk with her dogs Lulu and Mya. “But over time, it’s blossomed with more and more and more flowers – and they are out there every morning like clockwork.”

On weekends, the worshipers include more than a dozen people: black folks, white folks, all folks, said Andy Blackwood, a neighborhood resident. Two weeks ago, a group of German tourists visited the shrine.

“The dope-dealing has stopped, the ladies of the evening have stopped,” Blackwood said.

The Buddha has withstood two attempts to remove him from his watch, one criminal and one governmental. Neither has worked.

Soon after its installation, a would-be thief tried to pry the statue from its perch, but Stevenson had secured him with reinforced iron bar and “$35 worth” of a powerful epoxy – and Buddha didn’t budge.

In 2012, after a resident’s complaint, the city’s Public Works Department tried to remove the statue but received such passionate blowback from neighbors that city officials decided to table and “study” the issue. Two years later, the administrative effort is long forgotten, and Buddha is still there.

When I went to visit the shrine, four small-framed ladies who don’t speak or understand English decided I looked like a convert.

The moment I started talking, one of them politely took my pen from one hand, my notepad from the other and directed me to clasp my hands together, bow and repeat after her – so I did. When in Rome, right?

Apparently, my Buddhist chants aren’t half bad either because they won some approving “oohs and aahs” from the flock – and carried me to Step 2 in the conversion process. The same woman who had grabbed my gear sat me cross-legged on a prayer rug in the street and placed a stool with a book on it before me. If nothing else, Buddha and I share the same body type – short, squat and happy. I sat there for a moment thinking that I might resemble him – and maybe that’s why they seemed to like me.

I thought it might be a good opportunity to get a question in, too – and this time my spiritual guide seemed to understand.

“Next week,” she replied.

Thank you very much, but I think I’ve already found what I was looking for.

Chip Johnson is a San Francisco Chronicle columnist. His column runs on Tuesday and Friday. E-mail: chjohnson@sfchronicle.com. Twitter: @chjohnson.

……………………………………………………………………………………………..

Khuynh Hướng Lãng Mạn Thời Phát Huy
Nguồn:nguoiviet.com-Wednesday, October 01, 2014

Quỳnh Giao

Danh ca QG 1

Quỳnh Giao xin thân ái kính chào quý vị,

Nếu trong thời kỳ đầu của nền tân nhạc, các nghệ sĩ đã viết về những mối tình e ấp kín đáo, như sự nín lặng với Cô Hàng Hoa, mối tình câm với Cô Láng Giềng, như nỗi bâng khuâng của Cây Ðàn Bỏ Quên vì không biết rằng người đẹp “yêu tôi hay yêu đàn,” hoặc lời nhắn gọi vu vơ, với “ai lướt đi ngoài sương gió, không dừng chân khiến em bẽ bàng”… của Buồn Tàn Thu, thì từ đầu thập niên 50 trở đi, các nhạc sĩ tiên phong của chúng ta đã mạnh dạn hơn trong xu hướng nhạc tình.

Ðây là thời kỳ cực thịnh của thể tài lãng mạn về tình yêu mà Ðặng Thế Phong đã mở đầu và Văn Cao đã khai triển. Sau những bài tự tình hiền hòa của lớp người đi trước, các nhạc sĩ trẻ của thời đó đã viết những lời ca nồng nàn ướt át hơn. Nỗi niềm riêng tư của họ cũng có vẻ tha thiết đam mê hơn. Quỳnh Giao muốn nói tới xu hướng lãng mạn thời phát huy của thập niên 50, một thời cực thịnh và có nhiều ảnh hưởng nhất của tân nhạc…

Trong hàng ngũ này, nhiều nhạc sĩ đã để lại những tuyệt tác không phai lạt với thời gian, như Tu My với bài Tan Tác, như Tô Vũ với Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mưa…

Ở thể loại này, Quỳnh Giao xin trước tiên nhắc tới tình yêu và mùa Thu trong nhạc Ðoàn Chuẩn và Từ Linh.

Ðoàn Chuẩn sinh năm 1924, là con trai của nhà sản xuất nước mắm Vạn Vân nổi tiếng từ Bắc vào Trung.

Suốt cuộc đời nhạc sĩ, ông đã viết 16 ca khúc trong giai đoạn 48-56, và cho tới nay, các tác phẩm đó vẫn làm rung động hồn người mỗi khi được hát. Yếu tố thành công của các ca khúc Ðoàn Chuẩn có lẽ là tính chất lãng mạn, nét nhạc trong sáng và nhất là lời ca rất Hà Nội ngàn năm văn vật của ông.

Thưa quý vị, một nhà thơ miền Nam đã viết… “em Sài Gòn đẹp nhất về đêm.” Dù chưa ở Hà Nội một ngày, qua các ca khúc Ðoàn Chuẩn, ta cũng có thể cảm được rằng Hà Nội của dân ta đẹp nhất là vào Thu. Hát nhạc Ðoàn Chuẩn là ta nhớ tới Thu, nhưng là mùa Thu Hà Nội thanh lịch của một thời thanh bình xa xưa. Trong các ca khúc, Ðoàn Chuẩn thường ghép tên Từ Linh như đồng tác giả, chỉ để ghi nhớ tình bạn của ông với người bạn trẻ.

Một nghệ sĩ khác, từng lên đường kháng chiến cùng với Phạm Duy hay Văn Cao hơn 50 năm về trước, cũng đã cống hiến nhiều bản tình ca trác tuyệt mà đang bị lãng quên. Ðó là Ngọc Bích.

Những tác phẩm như Khúc Nhạc Tương Tư, Lời Hẹn Xưa, hoặc Trở Về Bên Mơ, Giấc Mơ Ngàn… đã gợi lên cả một không khí lãng mạn thời tiền chiến, với những hình ảnh lả lướt của làn tóc xõa, của đôi mắt huyền ngây thơ như khúc nhạc ái ân… mà nghệ sĩ muốn gửi tới người tình…

Trong thể loại trữ tình lãng mạn đó, Nguyễn Văn Khánh không viết nhiều, nhưng, chỉ với Chiều Vàng và Nỗi Lòng, ông đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc của một lối tỏ tình bằng nhạc đầy say đắm.

Từ miền Nam, và trong tầng lớp các nhạc sĩ trẻ của thời phát huy, có Lâm Tuyền là người sáng tác khá đều tay. Ông thường viết nhạc với lời ca của Dạ Chung, tức là nhà điện ảnh Hoàng Vĩnh Lộc sau này sẽ mất trong trại cải tạo.

Lâm Tuyền đã mang lại một khí hậu mới cho tân nhạc lãng mạn thời đó, vì từ những ca khúc của ông người ta nghe thấy lời kêu gọi viễn du, niềm bồi hồi khi ánh chiều rực rỡ chan hòa, nỗi nhớ nhung người em sầu mộng như một thúc giục trở về. Tứ thơ trong các tác phẩm của Lâm Tuyền là điển hình của sự lãng mạn hiền hòa dịu dàng, trong những giai điệu đã tân kỳ hơn thế hệ đi trước.

Cũng ở trong Nam, chúng ta có Võ Ðức Phấn, dù viết không nhiều nhưng có bài Cùng Một Kiếp Hoa trên nhịp điệu fox thời đó là một mới lạ, mới lạ như lời ca lúc đó được coi là khá táo bạo.

Khuynh hướng lãng mạn của tân nhạc Việt Nam trong thời kỳ phát huy đó là loại nhạc được mọi người yêu thích, và trong chương trình hôm nay, chúng ta mới chỉ có thể nhắc tới một số tác phẩm và tác giả tiêu biểu nhất. Xuất phát từ những tình cảm rất thật của nghệ sĩ thời đó, những ca khúc này có thể là điển hình của không khí trữ tình thời tiền chiến, nhưng được mọi lứa tuổi hát lại, vào mọi thời.

Khi được phỏng vấn, hoặc khi tâm sự về thời vàng son đó, hầu hết các nhạc sĩ đều nhắc tới người tình của mình như nguồn cảm hứng chính yếu. Những mối tình đó có khi thăng hoa trong nhạc, hoặc tan vỡ trong chiến tranh hay chia cách, nhưng đều để lại cho chúng ta một niềm hạnh phúc lớn: đó là được nghe những bài ca hay nhất, có giá trị nghệ thuật tiêu biểu nhất của thời cực thịnh của tân nhạc Việt Nam…

Một số các nhạc sĩ được nhắc tới ngày hôm nay đã không còn ở với chúng ta nữa, nhưng tác phẩm của họ thì vẫn sưởi ấm tâm hồn và ký ức chúng ta…

Quỳnh Giao xin kính chào tạm biệt quý thính giả, và xin hẹn tái ngộ trong chương trình tới của Suối Nguồn Tân Nhạc Việt Nam sẽ nói về xu hướng nhạc yêu nước.

……………………………………………………..

Khoảng cách nào giữa đời thường và, văn chương Ðào Hiếu?
Nguồn:nguoiviet.com-Friday, October 03, 2014

Du Tử Lê

Với vốn sống phong phú, nếu không muốn nói là “ngoại khổ,” óc nhận xét tinh tế, kinh nghiệm “trận-địa-chiến” tiểu thuyết của Ðào Hiếu, tôi nghĩ ông là một trong rất ít nhà văn hàng đầu ở lãnh vực hiện-thực-xã hội. Hư cấu nếu có trong truyện của ông, chỉ tựa “làm duyên” cùng, chữ nghĩa chỉn chu mà thôi.

Dao Hieu 1

Nhà văn Ðào Hiếu. (Hình: Uyên Nguyên/Người Việt)

Mấy yếu tố căn bản vừa kể, vốn là điểm mạnh của họ Ðào trong thể loại truyện dài, một lần nữa, lại xuất hiện “hoành tráng” trong tác phẩm “Khói Trắng Thiên Ðàng,” dầy gần 250 trang.

Khác hơn truyện dài “Bù Khú Tiên Sinh” xây dựng trên những mảng sương mù ký ức nhà sàn và, sự chập chờn lửa rừng thực/ảo, ở tác phẩm mới này, Ðào Hiếu ném người đọc vào giữa tâm bão của những mặt xã hội kín, khuất. Ðó là câu chuyện của một người con gái 16 tuổi, từ vai trò tiếp viên café ôm, trở thành “cao thủ” của một đường dây phân phối ma túy, loại mới nhất Methamphétamine – – Sau khi vô tình rơi vào cõi “thiên la địa võng.” Những cánh tay xúc-tu của loài bạch tuộc đen, đã đưa một cô gái quê, nổi trôi từ tầng địa ngục này, qua tầng địa ngục khác. Cái may mắn duy nhất của cô gái-ma-túy này là, cô gặp, nhận được chân tình của một người đàn ông lớn tuổi…

Truyện dài “Khói Trắng Thiên Ðàng” của Ðào Hiếu, với tôi, không hẳn là sản phẩm lao động trí tuệ, với những thông điệp báo động, cháy bỏng khẩn thiết, của một nhà văn, trước những vấn nạn vây khổn xã hội – – (Mà), nó như một thứ tự sự kể, một hồi ký (hành trình sống) khốc liệt của cô gái nhà quê, 16 tuổi và, của những người con gái đồng cảnh ngộ.

Vì truyện dài “Khói Trắng Thiên Ðàng” (KTTÐ) là một hồi ký, một tự sự kể, cho nên, vẫn theo tôi, tự thân đã là cả một khối thuốc nổ hiện thực cực mạnh, khiến nó không cần phải có những cao trào, những nút thắt, nút mở hay, những cố gắng đào xới tâm lý hoặc khai thác bản năng tình dục của con người để lôi cuốn người đọc. Mà, tính cao trào, sức công phá đã tiềm ẩn trong từng con chữ…

Hơn thế, để giảm bớt tính “sát thương” của khối chất nổ, đôi chỗ, tác giả đã dùng tới sở trường trào phúng, (riễu cợt ngay cả chính mình), cũng như bản chất thi sĩ của ông, hầu giúp người đọc có được đôi chút thư giãn cần thiết. Thí dụ:

Em bước vào làm bóng tối hỗn loạn
Xô đẩy tan tác
Ðêm rách nát sau tiếng nổ của gót hài
Những ánh đèn tự chọc vào mắt mình
Ðứt bóng.
Trăng rớt xuống sân vỡ như gương soi
Máu nguyệt động chảy đen trần gian…
(Trích chương 4, KTTÐ)

Cũng vì tính ngồn ngộn dữ kiện sống tiếp thu được từ “hiện trường,” nên những chương đoạn trong KTTÐ là một bộ phim chuyển động mau. Những cắt lát dứt khoát, quyết liệt, khiến người đọc khó rời khỏi trang sách.

Tôi muốn nói, ngoài trải nghiệm hiện thực, tài hoa của Ðào Hiếu, còn san bằng, xóa sạch khoảng cách giữa tiểu thuyết và đời thường.

Bên cạnh đó, qua từng con chữ, người đọc cũng gặp được không ít những so sánh liên tưởng bất ngờ, mới mẻ (tới đắng lòng), đôi chỗ lại đậm đặc chất thi ca. Ở phương diện kỹ thuật này, tôi nghĩ, Ðào Hiếu đã là một thi sĩ, nhiều hơn một nhà văn.

Thí dụ, ngay từ khởi truyện, Ðào Hiếu đã so sánh (cụ thể) nhân vật nữ của ông với một con khỉ nhỏ. Một con khỉ nhỏ lí lắc, tinh ranh, với bản năng đôi khi ngây ngô, khờ khạo, như nhân vật nữ (như chính ông?) cũng lí lắc, tinh ranh (và đôi khi cũng ngây ngô, khờ khạo do bản chất).

Tôi rất thích những ý tưởng, hình ảnh rất thơ, khá nhiều trong KTTÐ của họ Ðào. Như:

“…Ông cầm cuốn sách lên tay, mở ra. Cơn gió từ những trang sách thổi vào mặt. Những dòng chữ ùa ra, bay quanh ông như đàn chim. Ðó là tập thơ đầu tay của ông: mới mẻ, trong trắng, nhưng vẫn còn bí ẩn như một thế giới chưa được biết đến…” (Trích chương 3, KTTÐ)

Hoặc:

“…Bụi và lá bần khô cùng bốc lên. Rừng bần rào rạt như sóng. Gió lướt trên những tán lá xanh um, hoa bần bay lả tả và những trái bần đong đưa rập rềnh, trôi dạt. Gió chạy trên ngọn cây như sóng lướt trên mặt biển xôn xao, nắng chiều đọng trên vòm lá…” (Trích chương 11, KTTÐ)

Hoặc:

“…Trong căn phòng im lặng giữa một xóm lao động nghèo nàn, tiếng khóc của ông như tiếng giun dế luẩn quẩn giữa bốn bức vách ẩm mốc. Ông nghe rất rõ và ngạc nhiên thấy như đó là tiếng khóc của một người nào khác vô tình, vừa đến chia sẻ cùng ông…” (Trích chương 14, KTTÐ)

Hoặc nữa:

“…Lúc ấy trái bần chín trĩu cả những vạt rừng. Mùi thơm của nó làm ngây ngất những cơn gió. Con sóc nhỏ không còn hái trái cho người cha mà hái tặng ông. Nó chuyền cành lanh lẹ, dẫn dụ ông đi lạc vào một cõi trời đất nồng nàn thứ mùi ngai ngái của vỏ cây lên men…” (Trích chương 21, KTTÐ)

Trong rất nhiều trang văn của mình, Ðào Hiếu cũng đem lại cho người đọc những xúc động tự nhiên, khi ông viết về những cái chết của một số sinh vật, có nghiệp duyên với ông từ thời niên thiếu và, cái chết của chúng… đã sống lại vì cái chết của con chó nhỏ, người bạn trung thành của cô-gái-ma-túy…

Cái chết, “khung cửa hẹp” của bất cứ một sinh vật hữu tình nào, dù là con người hay con vật; bên cạnh những tình bạn giữa hai người tù nữ, cùng cảnh ngộ.

Tôi muốn gọi đó là những dòng chữ chói lọi tình yêu và, tinh ròng tình bạn, của những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội. Tựa đó là những sinh vật ngoài hành tinh. Nhưng tình người nơi họ, lại là một thứ gì giống như xa xỉ và, xa lạ với những sinh vật vô cảm, được gọi là con người nhởn nhơ giữa xã hội.

Tuy (hay nhờ) sống cạn kiệt thân, tâm với những “cái chết trắng,” với những kẻ trộm chó, với những “diệu thủ” trộm cắp, tiêu thụ đồ, xe ăn cắp, thậm chí sát nhân,… họ Ðào vẫn không quên cho thấy, ở cái thế giới bạo lực hoang dã kia, thấp thoáng đâu đó, vẫn là những bảo bọc, chia sẻ của những kẻ đạo tặc. Phải chăng, tác giả muốn nhấn mạnh, giữa khi đạo lý nhân quần ngày một phá sản, thì đám người sống bên lề xã hội, trong chừng mực nào đó, vẫn có cho riêng họ một thứ đạo lý: “Ðạo lý giang hồ”?!?

Trên tất cả mọi trải nghiệm, sống trong và sống giữa tâm-bão-đen hiện thực xã hội, tôi vẫn thấy cái Tâm-Nhân-Bản (tôi biết hoa ba chữ “Tâm-Nhân-Bản”) của ông.

Theo tôi, chính ngọn lửa nhân bản rực rỡ nơi họ Ðào, đã làm thành nhân cách nhà văn, nơi từng trang sách của ông.

Từ đấy, tôi không nghĩ, có dễ chúng ta còn thấy phải đòi hỏi thêm một điều gì, nơi nhà văn, sống như một đường gươm này!

Du Tử Lê

(California, Tháng Tám 2014)

………………………………………………………

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics