1.Tháng Chạp,viếng mộ cốTT Ngô Đình Diệm(NV)2.VN Cộng Hòa,biết mới tiếc(Đào Nương)3.Ngành Chiến tranh Chính trị VN Cộng Hòa

Tháng Chạp, viếng mộ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Nguồn:nguoiviet.com- Friday, January 30, 2015

Trần Tiến Dũng/Người Việt

BÌNH DƯƠNG (NV) – Người miền Nam, vào mỗi Tháng Chạp hàng năm đều nghĩ đến các bậc anh linh, các danh nhân dân tộc và người thân đã khuất.

Mo TT NĐ
Ngôi mộ đơn sơ của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm ở lô Mạc Đĩnh Chi, nghĩa trang
Lái Thiêu B, Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. (Hình: Trần Tiến Dũng/Người Việt)

Bất kể những biến động lịch sử, hiện nay, tục tảo mộ của người miền Nam vẫn là lễ hội văn hóa dân gian nhân bản nhất dành cho người khuất bóng và cả cho người còn tại thế.

Bà T., một người thân của chúng tôi, Việt kiều về từ Mỹ. Người phụ nữ Việt này đã ngoài tuổi năm mươi, đến định cư ở Mỹ hơn mười năm, công việc ở quê hương mới chỉ là thợ làm nail, nhưng bà nói, “Đây là lần thứ hai tôi về Việt Nam, ngày tôi tuyên thệ vào quốc tịch Mỹ, trong cảm xúc biết ơn của tôi đối với nước Mỹ, không hiểu sao lại có hình ảnh ông Ngô Tổng Thống, tôi có hứa với lòng mình là tôi phải tìm thăm mộ ông Ngô Tổng thống. Tôi không quên hồi học tiểu học, ngày nào thầy trò cũng hát bài vinh danh Ngô Tổng Thống. Cảm xúc đầu đời về tình yêu nước, yêu tự do không bao giờ phai mờ.”

Nhận lời hướng dẫn bà T., nhưng thật lòng chúng tôi cũng chưa lần nào đến nghĩa trang Lái Thiêu, dù từ lâu đã có nghe qua chuyện hai ngôi mộ Huynh và Đệ. Chúng tôi đi bằng xe gắn máy, với nhiều người đứng tuổi ít đi đây đi đó thì quốc lộ 13 ngày nay với các khu công nghiệp, siêu thị,… đúng là hoàn toàn xa lạ với ký ức của họ.

Ngày nay, Sài Gòn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, quần thể đô thị khó nhận biết ranh giới, việc một người Sài Gòn không biết sử dụng “Goole Map” đành liên tục mở miệng hỏi thăm đường thì có thể kết luận người đó thuộc típ cố cựu, lạc hậu không có đủ phương tiện di động cá nhân để sống thích nghi với sự rối loạn giao thông và xã hội.

Sau ba lượt hỏi thăm các bác tài xe ôm, chúng tôi đến cái quán nước xập xệ trước cổng nghĩa trang Lái Thiêu B.

Bà chủ quán muốn chúng tôi xác định là tìm mộ ai, ở nghĩa trang Lái Thiêu của người Việt hay của người Hoa. Như không thể dằn được cảm xúc, bất ngờ người đàn bà Việt kiều nói, “Thưa chị, tôi không có người thân nào nằm ở nghĩa trang này, tôi đến đây chỉ để thăm mộ ông Tổng Thống Ngô Đình Diệm thôi chị à.”

Sau một thoáng im lặng, người chủ quán, một người đàn bà miền Nam dáng dấp gầy ốm, nói. “Nhiều người đến thăm mộ ông không dám hỏi thẳng như bà. Thôi, bà chờ tôi lấy xe đưa đi chớ nghĩa trang rộng lắm, mắc công kiếm.”

Mo ND Nhu
Ngôi mộ của ông cố vấn Ngô Đinh Nhu. (Hình: Trần Tiến Dũng/Người Việt)

Gần như các nghĩa trang ven đô thị đều trở nên quang đãng vào tiết Tháng Chạp. Một phần do ánh sáng và khí trời nhưng phần chính là nhờ dịch vụ làm cỏ, rửa mộ, quét vôi các phần mộ. Thường thì các kiểu làm dịch vụ này do các người già, người nghèo sống quanh nghĩa trang làm, nhưng cũng có khi do các tay đầu gấu thân cận với các ban quản lý nghĩa trang “đấu thầu” chia chác.

Dù nhiều lần chúng tôi được nhìn hình ảnh mộ phần cố tổng thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa qua các thông tin từ Internet, nhưng chúng tôi không kiềm được xúc động khi đứng đối diện với ngôi một tô bằng đá mài xưa và tấm mộ bia đơn sơ với dòng chữ nhỏ đề tên thánh và một chữ Việt là: Huynh. Kề bên mộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm là mộ phần của thân mẫu ông. Ngay bên cạnh, mộ của ông cố vấn Ngô Đình Nhu trên bia cũng chỉ có một chữ: Đệ, đơn sơ.

Bằng ý thức, chúng tôi hiểu: Cái chết là sự bình đẳng tuyệt đối. Phần mộ hôm nay của ông Ngô Đình Diệm, vị cố tổng thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, một chính thể được Liên Hiệp Quốc công nhận, không phải là đơn sơ bình dị theo ý nghĩa tôn giáo hay văn hóa mà chính là sự bỏ phế đáng xấu hổ, bạc bẽo đáng sợ của những người cùng thời, cùng ý thức với ông và của cả thể chế đang cầm quyền hiện nay.

Lịch sử dân tộc và thế giới đã có những chuyện quật mộ kẻ thù của các vương quyền trong thời phong kiến để làm bài học về sự nhỏ nhen hèn hạ đến cùng cực, nhưng lịch sử cũng nêu nhiều tấm gương từ nhân vật quyền lực và thể chế cầm quyền quang minh đã đối xử cao thượng, hỉ xả với những người lúc sống từng là kẻ thù chính trị.

Ông D., người bạn đi cùng chúng tôi, đi từ hướng mộ ông Ngô Đình Cẩn, ông đến gần chúng tôi nói giọng nghẹn ngào. “Sao mà mấy bậc vị này lại chịu nghiệt ngã quá. Tôi thấy trước sau gì nghĩa trang này cũng giải tỏa, không biết lần này các ông đi đâu!”

Ông D., trên đường đến đây kể cho chúng tôi nghe chuyện hồi ông còn bé, có lần ba ông, một quân nhân VNCH dẫn ông đi vô nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, trong ký ức ông, nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi giống như một công viên lớn. Sau khi ba ông dẫn ông chiêm ngưỡng các công trình mộ phần to và đẹp của các ông tướng tá, chính khách rồi đưa ông đến bên hai ngôi một thấp lè tè không có mộ bia chỉ thấy có bốn cột trụ thấp nối nhau bởi cọng dây thừng.

Ba ông không nói gì, chỉ kính cẩn thắp hương, ông lấy làm lạ vì ông biết hai ngôi mộ này đâu phải của thân tộc. Thắc mắc, ông hỏi ba, nhưng trước sau ba ông không nói gì, trước khi bước đi, ba ông nắm tay ông biểu lạy đi con, rồi chỉ vào miếng giấy trắng trên có dằn một cục đá. Ông tò mò cầm cục đá lên và thấy trên miếng giấy trắng người ta có ghi dòng chữ: Nơi yên nghỉ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Hôm nay, chúng tôi, những người đến viếng mộ cụ Ngô Đình Diệm, không ai dưới 55 tuổi. Ở cái tuổi đó ít nhiều cũng còn nhớ về các sự kiện dưới thời VNCH. Nhưng nếu có ai đó cố hết sức để quên thì cũng không thể xóa trong trí nhớ được tên và sự nghiệp vinh quang cùng bi kịch gắn liền với cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và gia đình ông.

Tuy rằng chúng tôi đến viếng mộ ông lần này không dẫn theo con, cháu hay người bạn trẻ tuổi nào, nhất là những người sinh sau 1975; nhưng chúng tôi biết chắc chắn lịch sử không bao giờ già và chết.

Lịch sử về sự nghiệp, với công và tội, của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm chính là phần mộ uy nghiêm, minh bạch nhất sẽ trường tồn cùng dân tộc Việt Nam.

……………………………………………………………………………………….

VIỆT NAM CỘNG HÒA,BIẾT MỚI TIẾCĐào Nương Hoàng Dược Thảo

Nguồn: Tuần Báo Saigon Nhỏ số ra ngày 11 tháng 3, 2011

CHVN-Ghi on

NN sưu tầm trên Net-

-o0o-

VNCH, biết mới tiếc…

Sau 36 năm Miền Nam rơi vào tay cộng sản, ngày nay không chỉ những người sinh sống tại Miền Nam Việt Nam trước đây, không công nhận lá cờ đỏ sao vàng của đảng cộng sản Việt Nam mà ngay cả những người trong nước cũng không tôn trọng lá cờ này mặc dù đó là lá cờ đang tung bay khắp lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Người Việt hải ngoại tôn trọng lá cờ vàng ba sọc đỏ, không chỉ thuần túy vì đó là lá cờ của Việt Nam Cộng Hoa, của chính phủ Miền Nam Việt Nam mà vì đó là một biểu tượng cho một quốc gia mà đáng lẽ dân tộc Việt Nam phải có, một chính phủ tự do dân chủ, một nền kinh tế thịnh vượng, một xã hội công bằng bác ái mà lá cờ đỏ và cái chính phủ Việt gian cộng sản ngày nay tại Hà Nội sau 36 năm làm chủ đất nước đã chứng minh những điều ngược lại.

Dĩ nhiên, lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ mà những người sinh sống tại Miền Bắc không quen mắt, không chấp nhận dù họ có thù ghét chế độ cộng sản mà họ đang sinh sống đến tận xương tủy. Người ta không thể chấp nhận một biểu tượng mà người ta không biết, không hiểu, không có những kỷ niệm đẹp, không hy sinh xương máu để bảo vệ nó. Nhất là khi chỉ một sớm, một chiều, những người Việt Nam không chấp nhận Cộng Sản đã mang theo lá cờ vàng trên đường lưu vong, dù phải trải qua những nơi địa ngục trần gian là những nhà tù của cộng sản, và đã phải để lại sau lưng quê hương yêu dấu, mảnh vườn nhỏ, mái nhà ấm cúng, con sông hiền hoà, sau khi đã được chứng kiến chủ nghĩa xã hội cộng sản tiêu biểu cho văn hoá, đạo đức, luân lý Việt Nam phân hoá dần dần trước mắt. Việt Nam Cộng Hoà mặc dù là một xã hội chưa hoàn bị nhưng đã hình thành được mọi cơ cấu của một xã hội văn minh, công bình và dân chủ. Người Việt sống tại Miền Bắc đói khổ, đã phải hy sinh mọi thứ cho nhu cầu chiến tranh theo sự tuyên truyền của cộng sản nên có thể nói hầu hết đều không biết gì về Việt Nam Cộng Hoà.

Việt Nam Cộng Hòa không phải là Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ… mà là xã hội Miền Nam Việt Nam xây dựng trên căn bản giáo dục. Đó là những cô bé, cậu bé đến trường mỗi buổi sáng, mặc đồng phục với nét mặt tinh anh trong sáng của tuổi thơ. Đó là những cô nữ sinh áo trắng dễ thương và ngoan ngoãn, thuần hậu trong gia đình. Đó là những thầy, cô giáo sống và hãnh diện với thiên chức của một bậc thầy và được mọi người trong xã hội kính trọng. Trước 1975 Việt Nam Cộng Hoà đã đào tạo nhiều chuyên viên với tiêu chuẩn quốc tế, văn bằng của VNCH được chính phủ Hoa Kỳ, Pháp và nhiều quốc gia khác công nhận tương đương hoặc gần tương đương. Nghề thầy do đó không phải là một thứ… “chuột chạy cùng đường mới vào sư phạm” như ngày nay. Nhưng trong ký ức của tuổi trẻ miền Nam Việt Nam thì Việt Nam Cộng Hoà là những con đường ngợp bóng lá me, các nam sinh đi theo nữ sinh mỗi khi tan học nhưng không dám có một cử chỉ sàm sỡ, một lời nói vô lễ. Phải nhắc đến điều này vì những kỷ niệm đẹp của thời thiếu niên thường ghi sâu trong ký ức người ta suốt đời:
Lời ru nào níu được
Lúc những cánh me xanh
Bay mềm con lộ nhớ
Em sau khung cửa đạn soi
Sách ngăn tầm mắt đời ngoài lộ cao
Khi không lòng bỗng dạt dào
Sông tôi cạn nước nguồn nào bỗng đi
(Bài cho người trong vườn dược thảo, thơ Du Tử Lê)

Cuộc chiến càng thảm khốc thì lại có biết bao thanh niên theo tiếng gọi của núi sông lên đường nhập ngũ để bảo vệ một hậu phương bình yên trong đó có cha, có mẹ, có anh, có em, có cái gia đình nhỏ bé của mình. Đó là lý tưởng. Đó là những chàng trai anh hùng của thế hệ. Hàng trăm ngàn bài hát, bài thơ đã được viết ra trong giai đoạn này và cho đến nay vẫn còn là nguồn cảm hứng bất tận cho toàn nước Việt Nam thống nhất. Nó chính là “nhạc vàng” của văn hoá Việt:

Anh rót cho khéo nhé
Kẻo trúng nhằm nhà tôi
Nhà tôi ở cuối thôn Đoài
Có giàn thiên lý có người tôi thương.
(thơ Yên Thao)

Hay:
Năm năm rồi đi biệt
Đường xưa chưa lối về
Thương người em năm cũ
Thương goá phụ bên song
(thơ Phạm Văn Bình)

Hình ảnh của những tân sinh viên sĩ quan trong quân phục đại lễ ngày tốt nghiệp ở Đà Lạt, ở Nha Trang, ở Thủ Đức là những hình ảnh tinh anh của dân tộc Việt, không phải là hình ảnh của “nợ máu với nhân dân” sau ngày 1975 đâu. Họ đã chọn binh nghiệp để bảo vệ từng tấc đất của quê hương đang bị dày xéo vì bom đạn gây ra bởi bọn lãnh tụ cộng sản vô thần. Bây giờ sau 36 năm nhìn lại, nhìn thế hệ thanh niên tan rã mệt mỏi, tương lai không lối thoát của Việt Nam thời cộng sản mà thương cho họ không biết là bao nhiêu. Thương tuổi thơ của những người không lý tưởng, chỉ nắm “cái đuôi của đảng cộng sản Việt Nam” mà nhìn ra thế giới bên ngoài và trở thành một thế hệ “vô cảm” đến rợn người. Đời sống chỉ còn là sự tranh đua để đạt được điạ vị trong đảng vì quyền đi với tiền. Bằng được mua bằng tiền chứ không cần học để có kiến thức. Trong một quốc gia nghèo đói vào hàng nhất thế giới nhưng có hàng nửa triệu “tiến sĩ ma” làm trò cười cho thế giới.

Xã hội Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 không phải là hoàn toàn trong sạch, không có bóng dáng của tham nhũng nhưng tham nhũng không phải là một chính sách để cai trị nước như đảng cộng sản Việt Nam ngày nay. Người dân Miền Nam sống hiền hoà trong tôn ti trật tự, trong đời sống hàng ngày, họ không phải đối đầu với cảnh sát, công an. Không phải bất cứ khi nào có việc liên hệ với chính quyền thì phải trả tiền cho công an từ xã, huyện, tỉnh đến trung ương. Khi vào bệnh viện, không có việc đút lót tiền thì mới có được giường nằm. Trẻ con học giỏi thì được xếp hạng cao, được cho đi du học dù là con nhà nghèo. Sĩ quan đánh trận oai hùng, gan dạ thì được thăng thưởng. Nhà cháy thì được cứu hỏa chữa cháy chứ không phải trả tiền mới được chữa cháy.
Về chính trị, Việt Nam Cộng Hoà là một nước dân chủ tự do thực sự mặc dù cũng có những khuyết điểm. Trước 1975 tại Miền Nam Việt Nam, chính phủ công nhận đối lập, cho biểu tình chống đối tự do nên từ những năm 1965 đã có nhiều cuộc biểu tình chống Mỹ, chống Thiệu Kỳ, chống tham nhũng thoải mái của sinh viên học sinh, của nhân dân. Có những ông giáo sư đại học nhận mình là thành phần thứ ba, theo chủ thuyết xã hội chứ không phải là chủ thuyết Mác Lê công khai ra báo, viết sách, viết luận án đại học lên án chính phủ, lên án chiến tranh, nhưng lại ve vãn cộng sản vì lý luận ấu trĩ rằng chính phủ Miền Nam bị Mỹ giựt dây, muốn chấm dứt chiến tranh thì phải nói chuyện với Hà Nội. Kinh tế thương mại tự do không bị chính phủ kiềm chế, về an ninh xã hội người dân được luật pháp bảo vệ, cảnh sát công an ức hiếp nhân dân bị truy tố ra trước pháp luật ngay.
Xã hội Miền Nam tự do tạo môi trường để tinh anh phát tiết trên mọi phương diện. Ngày nay, sau 36 năm nhìn lại, đảng cộng sản Việt Nam vẫn không biết rằng khi giam hãm, đầy đọa hàng triệu người sống ở Miền Nam có liên hệ với chính quyền đem nhốt vào ngục tù, họ đã hủy diệt đi hầu hết những nhân tài về mọi mặt của đất nước, những trí thức khoa bảng mà có thể vài trăm năm sau, Việt Nam chưa thể có lại. Miền Nam Việt Nam không chỉ “sản xuất” có hai “thiên tài” là Trịnh Công Sơn và Bùi Giáng đâu. Nhưng Việt cộng chỉ “chấp nhận’ có hai người này vì một anh thì trốn lính, sống hèn mọn trong sự che chở bao dung của chính phủ Miền Nam tôn trọng nghệ sĩ, còn người kia thì mang bệnh tâm thần. Cứ đếm lại số sách đã được xuất bản tại Miền Nam trong 20 năm từ 1954 đến 1975, từ khoa học đến chính trị, từ truyện ngắn, truyện dài, thơ văn đến âm nhạc rồi so sánh với 60 năm cộng sản CAI TRỊ Việt Nam thì sẽ hiểu.

Do đó, so với xã hội Việt Nam dưới thời Việt gian cộng sản thì xã hội Việt Nam Cộng Hoà là thiên đường, là con đường mà Việt Nam cần nhiều thập niên mới “back to the future” được. Những người Việt Nam sống tại Miền Nam trước 1975, biết rõ điều này. Lá cờ vàng và danh hiệu Việt Nam Cộng Hoà vì sao vẫn được họ sùng kính dù Việt Nam Cộng Hoà đã mất đi phần đất cuối cùng đã 36 năm.

***

Vì không được sống, không được trưởng thành, không được hoạt động chính trị, văn hoá hay sống đời quân ngũ của xã hội Miền Nam nên không có gì ngạc nhiên khi những người trí thức Cộng Sản thù ghét bọn cầm quyền cộng sản vì đã hất cẳng họ, đã đẩy họ ra khỏi nước, rồi vì hậm hực nên suốt ngày ngồi viết những điều phản đối bọn cầm quyền cộng sản nhưng vẫn vinh danh bác Hồ và “kẻ cả” xem cộng đồng Người Việt hải ngoại là những kẻ bại trận, lá cờ vàng là vô nghĩa nên không muốn đoàn kết để lật đổ chế độ độc tài cộng sản mà họ là một thành phần cốt cán trước đây. Sống nơi xứ sở tự do này, chúng ta nên tôn trọng họ. Thái độ không muốn đứng chung trong hàng ngũ với Người Việt quốc gia cũng là một điều dễ hiểu: bối cảnh lịch sử do đảng cộng sản Việt Nam từ 60 năm qua đã chia dân tộc và đất nước Việt Nam ra thành nhiều khối: trí thức, công nhân, cộng sản, quốc gia, vv…vv… Điều khó hiểu là những người cán bộ đảng trung kiên bị thất sủng như ông Nguyễn Minh Cần, ông Bùi Tín, ông Vũ Thư Hiên thường viết bài dạy Người Việt quốc gia, những công dân của Việt Nam Cộng Hoà chống cộng trong khi họ nhìn thấy trước mắt, cái đảng tạo ra họ, cho họ một vị thế, một tên tuổi, chính cái đảng đó đang làm tan rã đất nước và con người Việt Nam. Cái đảng bất nhân đó đang chia 85 triệu Người Việt ra làm hai khối: đại đa số quần chúng bình dân, không có phương tiện về an sinh xã hội, không có giáo dục, sống đời nô lệ phục vụ cho một thiểu số cán bộ tham ô mà ngôn ngữ Việt cộng gọi là “quan tham”. Cái đảng bất nhân đó đang đưa đất nước đến cái họa diệt vong trong tay Tàu Cộng.

Sau 1975, Người Việt Quốc Gia, những công dân của Việt Nam Cộng Hoà vì thất thế nên chúng gọi là “ngụy”, đày ải quân dân cán chính trong rừng già để chết dần chết mòn, gia đình ly tán, con cái thất học, nên bằng mọi cách Người Việt Quốc Gia phải ra đi và bằng ý chí cương cường quật khởi cuả dân tộc Việt Nam, khối Người Việt Tự Do, những công dân cuả Việt Nam Cộng Hoà đã chọn thế giới làm lãnh thổ, phát triển tài lực và trí tuệ, ngăn chận được sự tuyên truyền và bành trướng của bọn Việt gian cộng sản khắp nơi. Có mà nằm mơ, người ta cũng không thể nghĩ rằng những công dân Việt Nam Cộng Hòa trong điều kiện sinh sống dù lưu vong, dù trong lao tù cộng sản đã giữ vững được ý chí chống cộng đến thế. Thế hệ thứ hai của cộng đồng Người Việt tị nạn cộng sản, của những công dân của Việt Nam Cộng Hòa vẫn giữ được nguyên vẹn đạo đức và luân lý của Việt Nam. Trong mọi gia đình, những đứa trẻ không nói rành tiếng Việt hay nói tiếng Việt với giọng ngọng nghịu của người bản xứ nhưng đều là những đưá trẻ ngoan ngoãn vì chúng biết rằng cha mẹ chúng phải lưu vong, phải hy sinh nhiều để chúng được lớn lên ở một đất nước tự do, có cơ hội để phát triển trí tuệ, những điều chúng sẽ không có được nếu sống dưới một chế độ cộng sản, như Việt Nam cộng sản ngày nay, như Cuba, như Bắc Hàn, hay ngay cả Trung cộng…

Nhưng những người như ông Nguyễn Minh Cần, ông Bùi Tín đâu phải là ngụy. Các ông này là những “trí thức cộng sản” lớn lên trong lòng chế độ. Đáng lẽ các ông đừng hèn, hãy ở lại Việt Nam, hãy kêu gọi nổi dậy, hãy dẫn dắt toàn dân chống lại cái đảng cướp đã tạo ra các ông, hãy cho toàn dân biết ‘chúng” đã đi sai… đường cách mạng. “Con đường Bác đi” cuả các ông không lẽ lại là con đường… bi đát, đưa hàng trăm ngàn gái Việt ra hải ngoại lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan, làm mãi dâm mới có cơm ăn? “Con đường Bác đi” không lẽ lại là con đường dâng nước Việt cho Tàu? Các ông hãy can đảm đứng dưới ngọn cờ do các ông lựa chọn miễn là các ông bảo vệ được dân, được đất nước khỏi rơi vào tay giặc là được. Hãy hành động như các chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã làm trước khi bị tước súng vì một thế cờ chính trị thế giới: họ đã đứng lên, đã anh dũng hy sinh, đã chống lại áp bức của chính quyền để bảo vệ dân, bảo vệ từng tấc đất Miền Nam để rồi đảng các ông đã lừa gạt dân Miền Bắc, đưa họ vào Nam, đem sinh mạng làm bia đỡ đạn để “giải phóng” một Miền Nam trù phú, một xã hội tôn ti trật tự, đạo đức văn hoá, luân lý cần được bảo tồn.

Mới đây có một bài viết của một người thuộïc thế hệ trẻ có tựa đề “Hãy để cho Việt Nam Cộng Hòa lùi vào dĩ vãng một cách tự nhiên” do diễn đàn danchimviẹt.info (BBT: Trong bài, tác giả viết .com) phổ biến với lời toà soạn như sau:

(Trích)
LTS: Trong công cuộc đấu tranh dân chủ hóa VN hôm nay, tìm hiểu tư duy của lớp người trẻ không tham dự vào cuộc chiến quốc-cộng trước kia – mà sẽ là chủ lực cách mạng nay mai – là một điều cần thiết. ĐCV chọn đăng bài viết của tác giả Tiên Sa trên mạng xã hội facebook cũng nằm trong tinh thần đó. Mời bạn đọc cùng suy tư và chia sẻ. (hết trích)

Nội dung bài viết của người bạn trẻ này cũng như nội dung bài viết của ông cán bộ già thất sủng Nguyễn Minh Cần giống nhau ở chỗ: cuộc cách mạng lật đổ bạo quyền cộng sản chưa xảy ra nhưng họ đã sợ lá cờ vàng và chế độ Việt Nam cộng hoà được tái lập ở Việt Nam… sau 36 năm bỏ chạy. Đào Nương tôi không tin đây là bài viết của một người viết trẻ ở hải ngoại. Thật ra, tháng 4, 1975, Người Việt Miền Nam đã quá mệt mỏi với một cuộc chiến không lối thoát giữa hai ý thức hệ tự do và cộng sản. Cái thành trì bảo vệ thế giới tự do đã không còn đứng vững sau khi tổng thống Hoa Kỳ Nixon qua gặp Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Giữa một bên chiến đấu với viện trợ có điều kiện và một bên được viện trợ vô điều kiện (?) của khối cộng sản, sự chiến thắng khó lòng ở về phía VNCH.
Khi buông súng năm 1975, Người Việt Miền Nam đã muốn “Hãy để cho Việt Nam Cộng Hòa lùi vào dĩ vãng một cách tự nhiên” để hai miền cùng nhau xây nước và dựng nước chứ. Nhưng việc gì đã xãy ra sau đó, chắc Ban Biên Tập của Đàn Chim Việt, nơi phát tán những bài viết của ông Nguyễn Minh Cần và “người bạn trẻ” Tiên Sa chắc đã biết rõ hơn ai hết: hàng triệu quân dân cán chính Miền Nam bị đầy vào lò “cải tạo”, gia đình họ bị đẩy đi vùng kinh tế mới, cướp nhà, cướp của, con cái họ không được đến trường. Cho đến ngày nay, những người sinh sống tại Miền Nam vẫn còn là những công dân hạng hai trên đất nước mình.
Vì nghĩ rằng “Hãy để cho Việt Nam Cộng Hòa lùi vào dĩ vãng một cách tự nhiên” nên hàng triệu người Miền Nam đã buông súng, xếp hàng đi tù cải tạo vì nghĩ rằng một giai đoạn chiến tranh tương tàn đã đi qua, đi trình diện một tháng rồi về sống đời công dân của một quốc gia độc lập và thống nhất. Chuyện gì đã xảy ra cho họ, cho những người sinh sống tại Miền Nam sau 1975?

Không lẽ ngày nay, trong công cuộc cứu nước, khi không còn ở vị thế cầm quyền thì những công dân của Việt Nam Cộng Hoà không thể là một tiếng nói đối lập với cái chính quyền vô nhân đang cai trị đất nước Việt Nam hay sao? Chúng ta sẽ đấu tranh để những người dân của đất nước Việt Nam dân chủ và tự do có quyền lựa chọn cho họ một đảng phái cầm quyền, họ sẽ biểu quyết về một lá cờ tượng trưng cho đất nước. Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay có 3 triệu đảng viên hầu hết là bọn thất học, tham ô. Cứ nhìn vào xã hội Việt Nam ngày nay thì thấy rõ. Cộng đồng Người Việt tị nạn cộng sản ở nước ngoài có 3 triệu người nhưng đồng thời họ cũng là công dân của những quốc gia tự do và dân chủ. Việc họ phải sống lưu vong ở hải ngoại không phải là một việc trốn chạy hèn nhát mà là hậu quả tất nhiên cuả một cuộc chiến tương tàn có kẻ thua, người thắng. Khi họ tập hợp để nói lên tiếng nói của Người Việt không chấp nhận chế độ cộng sản, một tiếng nói đối lập là một việc làm cần thiết khi Người Việt không thể làm được điều này ở quê hương. Tiếng nói đối lập này và lá cờ vàng trong giai đoạn này chắc hẳn là cần thiết cho công cuộc đấu tranh hơn là tiếng nói “lèm bèm” của những ông đảng viên thất sủng “chạy trốn” ra nước ngoài chứ?
Hy vọng bài viết này sẽ giải thích được phần nào tại sao Người Việt không cộng sản không thể “Để cho Việt Nam Cộng Hòa lùi vào dĩ vãng một cách tự nhiên” được. Vì đó là tương lai của đất nước Việt Nam. Đừng bàn cãi trên những trang giấy hay trên những trang mạng điện tử. Thực tế chứng minh cho hành động. Trong 60 năm, đảng cộng sản Việt Nam đã tàn phá đất nước và con người Việt Nam đến tận cùng đáy vực, khi các ông “trí thức cộng sản” đủ hết hèn để la làng (nhưng cũng phải núp đàng sau cái xác còn thở của “đại tướng”) về cái hoạ mất nước mà cũng chỉ như tiếng rên trong lăng Ba Đình cuả cái xác thối rữa chưa chôn thì chúng ta có cần bàn cãi thêm về cờ vàng hay cờ đỏ không? Ngược lại, chỉ trong 36 năm, cộng đồng Người Việt tị nạn cộng sản đã “bành trướng” điạ bàn hoạt động khắp năm châu, những khu phố Việt Nam sầm uất, vững mạnh hơn các ChinaTown của người Tàu, mỗi năm cộng đồng Người Việt gửi về nuôi thân nhân hàng chục tỹ đô la. “Chạy trốn, thua trận” mà làm nên … nghiệp lớn như vậy trong khi bọn cộng sản Việt Nam thì co cụm lại trong các toà sứ quán, ra đường thì mắt la, mày lét sợ người dân bắt gặp. Lãnh tụ ngoại giao như tên Nguyễn Xuân Việt ở Jordanie thì hành xử như bọn đầu gấu, du đãng khiến thế giới phải bàng hoàng và người nữ công nhân 20 tuổi bị xúc phạm đã được Hoa Kỳ cho nhập cảnh vì lý do chính trị thì đủ hiểu.

Dĩ nhiên, ở đâu, xã hội nào thì cũng gồm đủ con gà, con công, con phụng… đừng nhìn vào đàn gà của cộng đồng Việt Nam hải ngoại rồi kết luận tất cả chỉ là một đàn gà mà lầm to. Nhưng có một điều có thể coi như là chân lý “không thay đổi” dù bên này hay bên kia bờ Thái Bình Dương: đảng viên cộng sản thì anh nào cũng hèn, cứ phải dựa vào nhau để sống còn, để được làm “quan tham” bóc lột dân lành. Chúng đoàn kết theo đúng tôn chỉ “tranh đấu đến cùng với kẻ thù, chỉ hoà giải với nội bộ”. Trong khi nếu vì tương lai dân tộc thì phải tìm cách liên kết mọi người với nhau chứ. Ra đến hải ngoại vẫn còn sợ lá cờ vàng nhưng tiền bạc của cờ vàng thì đưa lên mặt mà hít hà. Khinh bọn “thất trận, giặc ngụy” bỏ chạy, nhưng lại sợ chúng nó trở thành một thế chính trị đối lập trở về nhưng vẫn ra chính sách ve vãn Việt kiều. Chơi với cái đầu “ngụy” thì không dám chơi chỉ muốn chơi với các “khúc ruột thừa” của họ?

Việt Nam Cộng Hoà phải sống mãi trong lòng người Việt không cộng sản là vì thế! Vì không muốn nhận sự nhục nhã là công dân của một nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, muốn bảo vệ ngư dân cũng phải xin phép “thằng” Tàu cộng!

Chúng ta hãy hành động. Tự cứu mình và cứu những người khác nữa. Vì tương lai, xin tất cả hãy tìm cách liên kết với nhau trong tình dân tộc.

© Đào Nương

……………………………………………….

Ngành Chiến Tranh Chính Trị VNCH Và Chương Trình Dạ Lan
Nguồn:Vietbao.com-31/01/2015

Trúc Giang MN

1* Mở bài

Ngành Chiến Tranh Chính Trị Việt Nam Cộng Hòa ra đời để phục vụ cho cuộc chiến đấu đầy chính nghĩa sáng ngời của người dân miền Nam. Đó là cuộc chiến chống lại chủ nghĩa hắc ám độc tài Cộng Sản để bảo vệ dân chủ, tự do cho đồng bào miền Nam Việt Nam.

Ngành Chiến Tranh Chính Trị thực hiện các hình thức binh vận, dân vận, đồng minh vận và địch vận, thông qua những hình thức tuyên truyền, nổi bật nhất là chương trình Dạ Lan, những em gái hậu phương và những anh trai tiền tuyến.

Về địch vận, chiêu hồi được nâng lên tầm cao thuộc chính sách quốc gia. Từ năm 1963 đến tháng tư 1975 đã kêu gọi được 230,000 hồi chánh viên trở về với chính nghĩa quốc gia.

2* Chương trình Dạ Lan: “Em gái hậu phương”, “anh trai tiền tuyến”

2.1. Nội dung chương trình Dạ Lan

Đêm đêm trên làn sóng điện của đài phát thanh Quân Đội, từ 7 giờ đến 9 giờ, giọng nói rất đặc biệt của “người em gái hậu phương”, rất thiết tha, truyền cảm, “nhỏng nhẻo”, tình tứ có mãnh lực thu hút tình cảm của các binh sĩ trên bốn vùng chiến thuật. “Em gái hậu phương”, “anh trai tiền tuyến” là những từ ngữ rất quen thuộc được nghe thấy trong những bài thơ, bản nhạc thịnh hành thời đó.

Chương trình Dạ Lan là một nét độc đáo của Nha Chiến Tranh Tâm Lý, cộng với nét đặc biệt của giọng nói Dạ Lan, đã được anh em quân nhân hoan nghênh, nhất là những chiến sĩ độc thân, xa nhà.

Không ai ngờ được người xướng ngôn viên mang tên Dạ Lan nói giọng Bắc lại là người con gái Quảng Nam, có một thời sống ở Huế, tên là Hoàng Thị Xuân Lan.

Ấn tượng nhất, đi sâu vào lòng các chiến sĩ trên khắp bốn vùng chiến thuật, nhất ở các tiền đồn xa xôi, đèo heo hút gió, là giọng nói của người em gái hậu phương Dạ Lan đêm đêm gởi tâm tình đến những anh trai tiền tuyến.

Với giọng nói rặt Bắt Kỳ rất êm đềm, tha thiết đầy trìu mến. Giọng ngọt xớt đôi khi tình tứ lãng mạn, gởi tâm tình và sự quan tâm từ hậu phương ra tiền tuyến cảm thông tình trạng gian khổ và chấp nhận hy của người trai thời loạn trước sự nguy vong của đồng bào miền Nam.

Những binh sĩ từ cấp bậc thấp nhất cũng cảm thấy là họ không bị bỏ quên, vì lúc đó có nhiều thiếu nữ đặt yêu cầu rất cao: “phi sĩ quan bất thành phu phụ.”

2.2. Tổ chức thực hiện

Chương trình Dạ Lan bao gồm các mục: tin tức, thời sự, điểm báo, văn nghệ và thư tín.

Phần hấp dẫn nhất là nhạc và thư tín. Dạ Lan giới thiệu từng bản nhạc, trả lời từng bức thơ từ tiền tuyến gởi về KBC 3168. Trả lời riêng biệt tên từng anh, đơn vị, vị trí đóng quân…không ai bị bỏ quên cả.

Thơ từ tiền đồn xa xôi tới tấp gởi về đến nổi đài Quân Đội phải tuyển dụng thêm nhiều nữ nhân viên đọc thơ và viết bài trả lời để cho Dạ Lan đọc.

2.3. Vài nét về Đại tá Trần Ngọc Huyến

Đại Tá Trần Ngọc Huyến 1952 Khóa 2 Trường Sĩ Quan Thủ Đức* Nha CTTL

Cha đẻ của chương trình Dạ Lan là Đại tá Trần Ngọc Huyến.

Năm 1964, Đại tá Trần Ngọc Huyến được cử giữ chức Giám đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý thuộc Bộ Quốc Phòng, sau đổi lại Cục Tâm Lý Chiến, nằm trong Tổng Cục CTCT, thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.

Đại tá Huyến là người có óc sáng tạo. Nhiều sáng kiến của ông đã làm thay đổi hình thức và nội dung tuyên truyền đã có từ trước.

Ông có cử nhân Văn Khoa trước khi gia nhập quân đội.

Ngoài chương trình Dạ Lan, ông còn làm thay đổi hai tờ báo quân đội là Thông Tin Chiến Sĩ và Văn Nghệ Chiến Sĩ, thành tờ Chiến Sĩ Cộng Hòa và Tiền Phong.

Đại tá Huyến cho biết, người quân nhân VNCH có quá nhiều gian khổ, khô cằn nên báo chí phải mang sự tươi đẹp của các kiều nữ. Hở hang một chút cũng không sao. Nội dung phải có hí họa, chuyện cười, văng tục một chút cũng OK.

2.4. Đi tìm xướng ngôn viên cho chương trình Dạ Lan

1). Dạ Lan 1

Chương trình mang tên Dạ Lan của đài phát thanh Quân Đội được hình thành trước khi có xướng ngôn viên của chương trình.

Dạ Lan được hiểu là hương thơm quyến rũ về đêm của một loài hoa.

Thiếu tá Nguyễn Văn Nam được giao nhiệm vụ đi tìm xướng ngôn viên (XNV) cho chương trình.

Qua thử giọng bằng máy thu âm của một vài ứng viên, một nữ XNV của đài Gươm Thiêng Ái Quốc, được chọn.

Đài Gươm Thiêng Ái Quốc đặt tại Đông Hà, phát thanh qua bên kia vĩ tuyến 17 trong chương trình địch vận, do Thiếu tá Phạm Huấn, tức nhà thơ Nhất Tuấn làm quản đốc và Hà Huyền Chi làm phó.

Một sự trùng hợp là xướng ngôn viên cũng tên Lan, Hoàng Thi Xuân Lan. Dạ Lan 1.

2). Dạ Lan 2

Hơn một năm sau, XNV Hoàng Thị Xuân Lan (Dạ Lan 1) nghỉ việc. Đài phát thanh Quân Đội chọn nữ XNV thay thế.

Lại có những trùng hợp, XNV mới cũng có tên Lan, Hồng Phương Lan (Dạ Lan 2) tức Mỹ Linh, cũng có giọng nói giống hệt như Dạ Lan 1.

Mỹ Linh là nhân viên của đài Quân Đội, phụ trách chương trình nhạc ngoại quốc yêu cầu.

Dạ Lan 2 phụ trách chương trình Dạ Lan cho đến ngày 29-4-1975. Di tản sang Mỹ, hiện định cư tại bang South Carolina (Mỹ).

Dạ Lan 1 hiện đang sống ở Sài Gòn.

3). Cuộc đời lận đận lao đao của Dạ Lan 1

Hoàng Hải Thủy

Cô rời Sài Gòn với cái bào thai mấy tháng mà tác giả cái thai là ca sĩ Anh Ngọc (Từ Ngọc Tản).

Năm 1968, Hoàng Thị Xuân Lan trở về Sài Gòn, phụ trách việc hành chánh ở đài phát thanh Sài Gòn.

Nhà văn Hoàng Hải Thủy, bút hiệu Công Tử Hà Đông cho biết, có một thời gian cô sống chung rất hạnh phúc với nhà văn Văn Quang nhưng vài năm sau đó thì họ chia tay. Văn Quang là cựu trung tá Nguyễn Quang Tuyến, quản đốc đài phát thanh Quân Đội từ 1969 đến 30-4-1975.

Dạ Lan 1 hiện là một cư sĩ tại ngôi chùa ở ngoại ô Sài Gòn. Cô đam mê làm công tác thiện nguyện, đi đến mọi nơi để giúp đỡ đồng bào nghèo.

2.5. Thành phần của chương trình Dạ Lan

Xướng ngôn viên: Hoàng Thị Xuân Lan (Dạ Lan 1) và Hồng Phương Lan (Dạ Lan 2)

Câu chuyện hàng ngày: Lưu Nghi.

Điểm báo: Nguyễn Triệu Nam

Phần nhạc: Hai nhạc sĩ Đan Thọ và Ngọc Bích.

Chọn bài và dẫn nhạc: Huy Phương.

Phần tin tức: Ban tin tức của đài Quân Đội

Thư tín: Cô Ngọc Xuân và một số cô phụ trách, chọn lựa thơ, viết bài trả lời cho XNV Dạ Lan đọc.

Ngoài ra còn có nhiều văn nghệ sĩ đã từng tham gia, đóng góp cho chương trình Dạ Lan như các nhạc sĩ: Ngọc Bích, Đan Thọ, Anh Ngọc, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Canh Thân, Nguyễn Đức, Văn Đô, Trần Thiện Thanh, Trần Trịnh, Đào Duy, Thục Vũ… Các nhà văn, nhà thơ như Huy Phương, Nguyễn Triệu Nam, Nhất Tuấn, Nguyễn Quốc Hùng (thầy khóa Tư), Dương Phục, Phạm Huấn, Châu Trị, Lâm Tường Dũ, Nguyễn Xuân Thiệp, Tô Kiều Ngân…

Chương trình Dạ Lan là một sáng tạo độc đáo, một bước đột phá thu hút thính giả với một số lượng lớn mà trước kia không có.

Nhiều anh em binh sĩ viết thơ tỏ tình với Dạ Lan. Nhiều bạn đi phép về Sài Gòn, đến đài phát thanh Quân Đội tìm gặp Dạ Lan, nhưng chưa có ai được diễm phúc gặp Dạ Lan bằng xương bằng thịt cả.

Dạ Lan trở thành một huyền thoại.

Giọng nói của hai cô Dạ Lan đã in sâu vào lòng người chiến sĩ một thời, trong cuộc chiến giữ nước chống độc tài Cộng Sản. Hai Dạ Lan đã cống hiến tài năng của mình trong cuộc chiến đầy chính nghĩa là bảo vệ tự do và dân chủ cho miền Nam.

Hình ảnh chiêu hồi.

3* Người sĩ quan chiến tranh chánh trị trong QLVNCH

Trung tướng Trần Văn Trung *Phù hiệu trường Đại Học CTCT

Chương trình Dạ Lan do Cục Tâm Lý Chiến thực hiện, nằm trong kế hoạch tuyên truyền của Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Ngoài ra, Tổng Cục CTCT cũng đào tạo sĩ quan để phục vụ cho ngành nầy.

Do nhu cầu cấp bách, trường Đại Học Chiến Tranh Chánh Trị được thành lập, và bắt đầu hoạt động từ ngày 1-1-1967, do Sắc luật số 48/SL/QP ký ngày 18-3-1966.

Thí sinh có bằng Tú tài toàn phần, qua một kỳ thi tuyển, được huấn luyện 2 năm, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. SVSQ/CTCT được huấn luyện về văn hóa, chính trị, quân sự, có thể nói là một sĩ quan đặc biệt so với từ trước, có khả năng căn bản toàn diện, cả văn lẫn võ. Những môn học về kinh tế, chính trị, triết học, lịch sử và nhất là về luật pháp, bao gồm dân luật, hình luật, luật tài chánh, hành chánh, luật quốc gia, luật quốc tế…

Số sĩ quan ra trường từ khoá 1 năm 1969 đến khóa 6 tan hàng ngày 30-5-1975 đã cung ứng khoảng 1,000 CTCT, một con số tương đối nhỏ so với quân số trên dưới một triệu của QLVNCH. Vì thế, SQ/CTCT chưa phát huy rộng rãi được khả năng đã thụ huấn. Hơn nữa, những năm sau cùng, cuộc chiến trở nên khốc liệt ở quy mô lớn, chủ yếu là xử dụng sức mạnh hoả lực của vũ khí và quân số. Nhiều sĩ quan tốt nghiệp Đại Học Chiến Tranh Chính Trị chỉ huy đại đội trực tiếp chiến đấu.

VNCH thất trận vì hết bom, hết đạn, hết xăng dầu cho xe tăng, thiết giáp, máy bay…chớ không phải do hết ý chí và tinh thần bảo vệ đất nước.

Đồng minh phản bội, lực yếu, thế cô, thất trận là tất yếu.

3* Người chính ủy trong quân đội Cộng Sản Việt Nam

Người SQ/CTCT Việt Nam Cộng Hòa không đại diện cho một đảng phái chính trị nào cả, họ chỉ có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc với tinh thần trách nhiệm và danh dự của người quân nhân. Trái lại, người chính ủy trong quân đội CSVN chỉ bảo vệ Đảng của họ, với một thiểu số 3 triệu người, đè đầu cởi cổ một dân tộc 84 triệu.

Chính đảng CSVN đã công khai tuyên bố, quân đội và công an là lực lượng chuyên chính vô sản của đảng, là công cụ bảo vệ đảng, thực hiện cuộc cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa trên đất nước VN. Nhưng mỉa mai thay, công cụ trấn áp 84 triệu nhân dân lại mang tên là “Quân Đội Nhân Dân”, “Công An Nhân Dân”. Và từ đó, đảng tự nhận rằng Đảng là Tổ quốc VN, Đảng là dân tộc VN, CNXH cũng là Tổ Quốc, người nào không yêu CNXH là phản bội Tổ Quốc. Thật là một thứ lý luận ngu dốt và trơ trẻn hết nước nói. Sách vở và tài liệu còn ghi rõ ràng như thế.

4* Đảng Cộng Sản VN không còn tin tưởng đảng viên

Đảng CSVN lãnh đạo quân đội một cách toàn diện. Các cấp chỉ huy đơn vị phải là đảng viên, như thế còn chưa đủ, Nghị Quyết 51-NQ/TW ngày 20-7-2005 của Bộ Chính Trị, đã lập lại chức chính ủy với cấp bậc và quyền lực ngang bằng với người chỉ huy trưởng đơn vị, từ cấp đại đội trở lên. Trước kia, chính ủy chính thức giữ vai trò cấp phó của đơn vị. Như thế, một đảng viên nầy nằm sát bên cạnh một đảng viên kia, trong một đơn vị có hai chỉ huy trưởng, mục đích dò xét, canh chừng lẫn nhau, chứng tỏ đảng không còn tin tưởng vào sự trung thành của đảng viên mình như trước kia nữa. Trái lại, đảng viên cũng không còn tuyệt đối trung thành vào đảng, bằng chứng là, những “lão thành cách mạng”, những tướng lãnh nghỉ hưu, và ngay cả những đảng viên trẻ cũng chống đảng, vì cái thời kỳ bưng bít sự thật không còn nữa. Thời đại thông tin hiện tại đã phơi bày ra ánh sáng những trò lừa bịp, gian trá của đảng.

Luật sư Lê Thị Công Nhân trước kia cũng đã từng được kết nạp vào đảng, và mới đây, người đảng viên Nguyễn Chí Đức, đi biểu tình chống Trung Cộng ngày chủ nhật 17-7-2011, đã bị đồng chí là Đại úy Công an với biệt danh là “Minh Đạp” sút cho những cú đạp như trời giáng. Nguyễn Chí Đức trả lời phỏng vấn đài BBC như sau, “Tôi bị khống chế như một con lợn, và nhận 4 cú sút, trong đó 2 phát được “ăn bánh giày” vào mồm, một phát qua cổ và một phát vào ngực”.

Hình ảnh Linh Mục Lý bị bịt miệng trước toà, hình ảnh “Minh đạp” cho ăn gót giày được tuyền đi khắp nơi trên thế giới, cho thấy bộ mặt hung tàn của chế độ Hà Nội.

Đảng CSVN hiện nay chỉ nhờ vào bạo lực trấn áp để tồn tại. Đó là cái bi đát của một chế độ sắp bị diệt vong.

5* Hoạt động của ngành Chiến Tranh Chánh Trị trong Quân Lực VNCH

Ngành CTCT của QLVNCH được tổ chức theo cơ cấu và nội dung của CTCT Trung Hoa Dân Quốc. Nội dung của Lục Đại Chiến là đúc kết những kinh nghiệm đấu tranh chống CS của Tưởng Giới Thạch chống lại Mao Trạch Đông. Lục Đại Chiến áp dụng thích hợp vào chiến tranh VN, vì Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp áp dụng chiến tranh nhân dân, du kích và nổi dậy của Trung Cộng.

Tổng Cục CTCT được chia thành 5 cục với một trường Đại Học Chiến Tranh Chánh Trị.

1. Cục Chính Huấn phụ trách huấn luyện

2. Cục Tâm Lý Chiến đảm trách tuyên truyền

3. Cục Xã Hội chăm sóc gia đình binh sĩ, giáo dục con em quân nhân, quản lý các Nha Tuyên úy.

4. Cục An Ninh Quân Đội bảo vệ an ninh nội bộ và phản gián

5. Cục Quân Tiếp Vụ cung cấp nhu yếu phẩm miễn thuế

6. Trường Đại Học Chiến Tranh Chánh Trị đào tạo sĩ quan trẻ có đầy đủ năng lực đảm trách công tác CTCT ở các đơn vị.

6* Lục đại chiến

Nội dung hoạt động căn bản của ngành Chiến Tranh Chánh Trị là “Lục đại chiến”, tức là 6 trận chiến lớn chống đối phương, bao gồm: Tư tưởng chiến, Mưu lược chiến, Tổ chức chiến, Tình báo chiến, Tâm lý chiến và Quần chúng chiến.

6.1. Tư tưởng chiến.

Tư tưởng là yếu tố quan trọng nhất, vì tư tưởng hướng dẫn hành động, có tư tưởng đúng mới hành động đúng và tích cực.

Nổ lực của ngành CTCT trong QLVNCH là làm cho nhân dân và chiến sĩ hiểu rõ được cuộc chiến đấu của quân dân Miền Nam là chính nghĩa, cụ thể là bảo vệ tự do, dân chủ cho nước Việt Nam Cộng Hòa, trước cuộc xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt. Đảng CSVN là tay sai của Cộng Sản Nga, Tàu trong mưu đồ bành trướng của CNCS, nhuộm đỏ thế giới của CSQT. Điều nầy được kiểm nhận là đúng, đó là ngày 1-5-1975, một ngày sau khi chiếm được miền Nam, Phạm Văn Đồng tuyên bố, “thống nhất đất nước để đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”.

Quân dân miền Nam chiến đấu tự vệ chống lại bọn người “Sinh Bắc tử Nam”, đã vượt vĩ tuyến 17, vượt sông Bến Hải, vượt Trường Sơn, vượt đường mòn HCM, vào tận miền Nam, dùng vũ khí của Nga, Tàu và các nước CS, để giết hại đồng bào miền Nam đã tập họp lại trong những đơn vị của quân đội, chiến đấu giữ tự do, dân chủ, giữ nhà, giữ nước. Chính nghĩa sáng ngời của cuộc chiến tranh là ở những mục đích cao cả đó. Chương trình Dạ Lan của đài phát thanh Quân Đội đã làm việc đó, và góp phần nâng cao tinh thần chiến đấu của người thanh niên thế hệ, trước hiểm họa mất nước.

6.2. Mưu lược chiến

Nhận thức đúng, hành động đúng, nhưng phải hành động như thế nào để đạt kết quả to lớn mà tổn thất rất nhỏ thì mới hữu hiệu. Đó là phải dùng “cái trí”, mưu trí trong việc dụng binh cũng như ở tất cả hình thức đấu tranh.

Trong phép dụng binh, thì cái nguyên tắc “bất chiến tự nhiên thành”, thắng lợi mà không giao chiến, mới là thượng sách. Mưu lược cổ điển nhắc tới 36 kế, xem ra một số mưu kế vẫn còn giá trị xử dụng, và nhiều tướng lãnh VNCH đã áp dụng thành công những kế sách đó.

Mưu lược chiến nói chung là những suy nghĩ sáng tạo trong việc áp dụng chiến thuật, chiến luợc đối với kẻ thù.

Trong lịch sử, để nâng cao tinh thần chiến đấu của quân sĩ trước thế mạnh của quân xâm lược nhà Tống, danh tướng Lý Thường Kiệt đã cho thực hiện một mưu kế rất thần tình, ông sai người giả làm Thần Thánh, núp trong đền Trương Hát, khi trời sấm chớp, thì đọc bài thơ mắng chửi quân giặc như sau:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.

Dịch nghĩa:

Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời.

Binh sĩ nghe Thần phán những câu ấy, nức lòng đánh giặc, dứt khoát là phải cho quân giặc tơi bời như Thần linh đã phù trợ.

Cũng tương tự, Nguyễn Trãi vạch ra kế sách dùng mỡ (mật ong) viết trên lá cây câu chữ “Lê Lợi vi quân-Nguyễn Trãi vi thần” (Lê Lợi làm vua-Nguyễn Trãi làm tôi thần), để cho kiến ăn, hiện ra mặt chữ, rồi đem thả cho trôi sông, tạo ra một “điềm” trời, khẳng định yếu tố “thiên mệnh” khiến cho dân chúng nhanh chóng về Lam Sơn, tham gia nghĩa quân.

Ngành CTCT xem Nguyễn Trãi như là Thánh Tổ, dùng hai câu trong bài Bình Ngô Đại cáo:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Ngô Tất Tố dịch từ chữ Hán, “Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn, Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo”.

Mục đích nhấn mạnh, cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam là đại nghĩa, đầy chính nghĩa, phù hợp với thiên lương đạo lý, là cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng chống lại cường quyền, tàn bạo là chủ nghĩa Cộng Sản. Vũ khí giết đồng bào miền Nam, do các nước Cộng Sản cung cấp, là một chứng minh hùng hồn nhất. Cái tàn bạo của Cộng Sản thể hiện rõ ràng, cụ thể nhất trong dịp Tết Mậu Thân năm 1968 ở Huế. Hơn nữa, Hồ Chí Minh là “người Nga gốc Việt”, được Nga nuôi dưỡng, giáo dục, làm việc và ăn tiền của Cộng Sản Quốc Tế, là điều không thể chối cãi được.

6.3. Tình báo chiến

Tình báo được định nghĩa tổng quát là những hành động thu thập, nghiên cứu, tổng hợp, xử lý những tin tức và tài liệu bí mật về quân sự, chính trị, quốc phòng, an ninh, khoa học kỹ thuật…của đối phương.

Tình báo là thu thập, báo cáo tình hình của địch, một yếu tố rất quan trọng, không những trong chiến tranh mà còn quan trọng trong những cạnh tranh về mọi mặt trong xã hội. Quan điểm căn bản được Tôn Tử ghi như sau:

Tri kỷ tri bỉ bách chiến bách đãi
Bất tri bỉ, nhi tri kỷ, nhất thắng nhất phụ
Bất tri bỉ, bất tri kỷ mỗi chiến tất bại.

(Biết người biết ta trăm trận không nguy. Không biết người mà chỉ biết ta, một trận thắng, một trận thua. Không biết người, không biết ta, mọi trận đều bại). Ý nghĩa trên được rút gọn trong câu “Tri kỷ tri bỉ bách chiến bách thắng”, đó là quan niệm căn bản, chớ không có ý nghĩa tuyệt đối, bởi vì việc thắng bại còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, như trường hợp một trong hai bên tham chiến, không có quyền lựa chọn giữa đánh hay không đánh, như bị vây đánh hội đồng chẳn hạn. Năm bảy thằng Cộng Sản vây đánh một người Việt Nam Cộng Hòa, thì mình không bị chột cũng bị què.

Tổng thống Obama bổ nhiệm ông Leon Panetta, Giám đốc CIA vào chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng là thích hợp nhất, vì khả năng biết người, biết ta của ông cao hơn những người ngoài khu vực an ninh, tình báo.

6.4. Tổ chức chiến

Tổ chức (Organize) là sắp xếp các bộ phận cho có hệ thống, hoạt động ăn khớp với nhau trong việc thực hiện một công tác, một chiến dịch. Công việc càng phức tạp, có liên hệ đến nhiều cơ quan, thì cần phải được tổ chức thật chu đáo, mang tính hợp lý và khoa học, như trong một bộ máy, những trục, những bánh xe răng phải hoạt động ăn khớp chặt chẽ với nhau thì máy mới vận hành được.

Vai trò của việc “tổ chức” trong công tác tiếp vận cho một chiến trường lớn rất quan trọng, trong đó, vũ khí, đạn dược, thuốc men, thực phẩm, nhiên liệu… cần phải có sự phối hợp ăn khớp với nhau của các ngành như quân cụ, quân nhu, quân vận, quân y, phi cơ và tàu bè vận tải của không quân và hải quân, lực lượng quân đội bảo vệ lộ trình, bảo vệ an ninh bãi đáp, bảo vệ bầu trời chống lại phòng không của địch…mà Tổng Cục Tiếp Vận đóng vai trò chính và Cục Truyền Tin là phương tiện chủ yếu.

Tóm lại ngành CTCT, người sĩ quan CTCT phải có óc tổ chức để thực hiện từng công tác về dân vận, binh vận, địch vận, tuyên truyền, phản tuyên truyền cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể đang xảy ra.

6.5. Tâm lý chiến

Cục Tâm Lý Chiến là cái xương sống của ngành CTCT trong QLVNCH. Chiến tranh tâm lý là chiến tranh về tư tưởng, dùng tư tưởng đánh bại tư tưởng, ý chí và tinh thần của quân địch, đồng thời nâng cao tinh thần quyết thắng của binh sĩ ta. Phương tiện chính của CTTL là tuyên truyền và phản tuyên truyền.

Có hai loại tuyên truyền: tuyên truyền công khai và tuyên truyền bí mật.

6.5.1. Tuyên truyền trắng

Tuyên truyền công khai còn gọi là tuyên truyền trắng, là dựa vào những tin tức chính thức, có nguồn gốc rõ ràng như những lời tuyên bố của các chức sắc cao cấp như thủ tướng, bộ trưởng hoặc phát ngôn viên chính phủ…từ đó triển khai, phân tích để chứng minh một điều gì muốn tuyên truyền. Ví dụ như ngày 1-5-1975, một ngày sau khi chiếm miền Nam, thủ tướng Phạm Văn Đồng tuyên bố “thống nhất đất nước để đưa cả nước, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH. Đảng CSVN là lá cờ đầu, là đội quân tiên phong của Cộng Sản Quốc tế tiến hành cuộc cách mạng vô sản thế giới”. Đó là lời tự thú có giá trị, chứng minh CSVN là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế CS. Xâm chiếm miền Nam để bành trướng CNCS trong mưu đồ nhuộm đỏ thế giới của CS. Hết chối cãi. Lòi bộ mặt giả dối, lừa bịp là chiêu bài “giải phóng dân tộc”. Lộ liễu hơn nữa, đảng Xã Hội lấy lại bản chất thật sự của nó, là chính thức mang tên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ngày nay, đảng Cộng Sản hết thời, vì chủ nghĩa Cộng Sản đã bị nhân loại ném vào sọt rác.

(còn tiếp)

Add a Comment

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Web
Analytics