Tiền vàng mã cao giá hơn tiền đồng
Nguồn:RFA – Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2015-01-14
Áo giấy được treo bán để người dương gửi về cõi âm.
RFA PHOTO
Đồng tiền Việt Nam hạ thêm 1% so với đồng đô la, đó là tin sốc đối với người Việt. Nhưng điều ấy cũng chưa thật sự sốc nếu so sánh mệnh giá đồng Việt Nam với đồng âm phủ, thật đáng sợ khi mệnh giá đồng âm phủ cao hơn nhiều so với đồng Việt Nam hiện tại, đương nhiên là không thể cao hơn gấp hai mươi mốt ngàn lần như đồng đô la Mỹ nhưng so ra, những tờ giấy mà ai cũng có thể in ra để bán và không hề có sự bảo chứng giá trị của nhà nước kia lại có giá trị cao hơn đồng bạc của ngân hàng nhà nước Việt Nam. Hay nói cách khác, đồng âm phủ cao hơn đồng chính phủ.
Tỉ giá 1%
Một người chuyên sản xuất tiền âm phủ ở thành phố Sài Gòn, tên Cảnh, chia sẻ:
“Ví dụ như vàng mã, tiền bạc, áo giấy thì khi cúng ngoài sân, người ta thường hay đốt, còn ở trong nhà thì không. Vì thường trong nhà thì người trong nhà mong người mất sẽ sớm siêu thoát, họ không cần những thứ này. Chỉ có ngoài sân như cúng rằm… mới cúng vàng bạc, áo giấy…”
Đốt áo giấy là việc của người Tàu họ đẻ ra thời thương mãi đó. Cái đó không hay. Đừng có mê tin cái đó. Chẳng thà tiền để đốt áo giấy đó, bỏ vào thùng phước sương ở chùa hoặc giúp đỡ mấy nhà nghèo khổ.
-Anh Mạnh
Ông Cảnh vốn là người sản xuất tiền âm phủ và vàng mã bỏ mối mấy chục năm nay nhưng ông cũng quên bẵng đi, không hề để ý mệnh giá của nó và cũng không ngờ đến chuyện này. Nhưng một lần tình cờ, khách hàng mua 100 tờ tiền âm phủ với giá tám ngàn đồng, ông này lắc đầu nhận xét là tám ngàn đồng Việt Nam bây giờ vẫn còn may mắn mua nổi 100 tiền âm phủ, ông Cảnh mới giật mình.
Tiền âm phủ gồm nhiều loại, trong đó có cả đô la âm phủ, euro âm phủ nhưng có ba loại tiền truyền thống, đó là tiền bạch đinh, hoàng đinh và tiền hoa in hình đồng xu tròn. Giấy bạch đinh tượng trưng cho dương khí, hoàng đinh tượng trưng cho âm khí và đồng in hình xu tròn tượng trưng cho sự phối ngẫu cả hai loại tiền này, âm dươn gắn kết, hài hòa. Một khi đốt cúng cho ông bà, người Việt Nam thường đốt kết hợp ba loại bạch đinh, hoàng đinh và tiền hoa để ông bà tùy nghi sử dụng.
Thường thì người nghèo đốt mỗi loại tiền một trăm tờ, vị chi một lần cúng hết ba trăm tờ, gọi là ba trăm bạc âm phủ. Muốn có ba trăm bạc âm phủ, người ta phải bỏ ra hai mươi bốn ngàn đồng tiền chính phủ phát hành để mua. Nhưng đó là giá gốc, nếu như mua ở các cửa hàng bán lẻ, phải mất ba chục ngàn đồng. Nếu tính theo tỉ giá thì một đồng âm phủ ăn được một trăm đồng chính phủ, tỉ giá là 1%.
Những gian hàng đồ thờ ở phố Hàng Quạt – Hà Nội. RFA PHOTO.
Chuyện tưởng như đùa, khôi hài nhưng nếu xét về lâu về dài thì có vẻ như đồng âm phủ ổn định hơn rất nhiều so với đồng chính phủ. Vì những năm đầu đổi tiền ở thập niên 1980, một trăm tiền âm phủ, chỉ cần bỏ ra vài xu tiền chính phủ đã mua được. Hiện tại thì đồng chính phủ trượt giá quá sức thấp so với đồng âm phủ. Và điều đó cho thấy rằng vấn đề chống mê tín dị đoan tại Việt Nam sẽ mang tính hình thức, khó mà thoát khỏi chuyện mê tín dị đoan một khi nền kinh tế bất ổn đã cài đặt cho người dân một loại tâm lý bất ổn.
Sở dĩ nói rằng việc chống hay xóa mê tín dị đoan ở Việt Nam sẽ thất bại là vì ngay trong nền kinh tế Việt Nam, nếu những người nào có trí nhớ tốt, từng gởi tiền vào ngân hàng gọi là đầu tư lấy lãi, họ sẽ nhận chung một số phận là thất bại thảm hại, sự đầu tư của họ còn tệ hơn cả việc mua một con heo nái về nuôi của người nông dân. Và điều này gây hoang mang cho không ít những người có tiền, họ sẽ xem đó là sự không may mắn, không được ơn trên chiếu cố mặc dù họ đã nỗ lực và đầu tư bằng cả trí não lẫn tiền bạc.
Điều đó sẽ dẫn đến tâm lý cầu an và nhờ vào thế lực siêu hình nào đó. Đương nhiên không đơn giản chỉ việc đầu tư thất bại mà người ta nghĩ đến người khuất mặt mà có cả nhiều yếu tố bất minh trong quá trình sống, trải nghiệm khiến cho con người ít dám tin vào con người mà lại tin vào thế giới thần linh, siêu hình, bởi thế giới đó, dù sao đi nữa vẫn chưa bao giờ lừa gạt họ điều gì.
Rải tiền chính phủ thay cho tiền âm phủ
Một cư dân Gò Vấp, Sài Gòn khác tên Mạnh, chia sẻ:
“Đốt áo giấy là việc của người Tàu họ đẻ ra thời thương mãi đó. Cái đó không hay. Đừng có mê tin cái đó. Chẳng thà tiền để đốt áo giấy đó, bỏ vào thùng phước sương ở chùa hoặc giúp đỡ mấy nhà nghèo khổ.”
Tiền lẻ Việt Nam đồng được bày bán để cầu lộc. RFA PHOTO.
Ông Mạnh cho rằng việc đốt giấy tiền, vàng mã mỗi khi cúng ông bà một cách vô tội vạ là điều hoàn toàn không tốt, mang tính mê tín dị đoan và quá phung phí bởi tỉ giá của đồng âm phủ đã cao gấp một trăm lần đồng chính phủ. Nhiều gia đình giàu có đã đốt cả vài ngàn tiền âm phủ mỗi khi cúng và làm tốn đến vài trăm ngàn đồng tiền chính phủ. Nếu để vài trăm ngàn đồng đó chia sẻ cho người nghèo thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn. Vì hiện tại Việt Nam có quá nhiều người nghèo.
Thậm chí có người mỗi ngày chỉ kiếm được từ mười đến hai mươi ngàn đồng để sống thoi thóp qua ngày giữa thành phố rộng lớn này. Điều này cũng đồng nghĩa cả một ngày lao động mệt mỏi của họ chỉ có thể mua được một trăm bạc âm phủ và nếu muốn mua cho đủ bộ ba tiền bạch đinh, hoàng đinh và tiền hoa thì họ phải mất ba ngày lao động. Ông Mạnh kêu gọi mọi người hãy giảm bớt việc đốt giấy bạc âm phủ, để dành tiền chính phủ mà chia sẻ cho người nghèo khó.
Cũng theo nhận xét của ông Mạnh thì những gia đình quan chức, những người giàu có ở Chợ Lớn và các doanh nghiệp, kể cả cơ quan nhà nước thường đốt rất nhiều tiền âm phủ trong dịp cúng tất niên hằng năm. Có khi số tiền thưởng cho một nhân viên không bằng số tiền mua vàng mã, tiền âm phủ để đốt trong dịp cuối năm. Nhưng vẫn không đáng ngại bằng các đám tang, ở những nơi linh thiêng, hiện tại người ta đổi tiền 200 đồng, 500 đồng của chính phủ để rải cúng thay vì dùng tiền âm phủ. Bởi rải tiền chính phủ ít tốn kém cho người sống mà lại có con số lớn hơn nhiều cho người âm.
Và ông Mạnh lấy làm lạ một điều là không hiểu sao bây giờ người ta lại sính chuyện đốt tiền âm phủ và vàng mã quá nặng. Hay nói cách khác là mên tín quá nặng, hễ nền kinh tế càng bất ổn bao nhiêu thì người ta càng mê tín bấy nhiêu. Có hai hướng để người ta sẵn sàng bỏ tiền ra mua vàng mã, tiền âm phủ để đốt: Hoặc là đồng tiền trượt giá, thất nghiệp và khó khăn, người ta cúng kính xin được bình an, may mắn; Hoặc là tham nhũng phát triển quá cao, người ta cúng để giải bớt nghiệp, ví dụ như tham nhũng một tỉ đồng thì người ta sẽ mua một trăm tiền âm phủ để giải nợ. Điều đó mới nghe thật buồn cười nhưng là sự thật!
Và dù hiểu theo cách gì thì hiện tại, tiền âm phủ vẫn được bảo chứng mệnh giá tốt hơn tiền chính phủ gấp một trăm lần. Đó là sự thật đáng buồn!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
…………………………………………………………………………………….
Người làm vàng mã kiếm sống mùa Tết
Nguồn:nguoiviet.com – Sunday, January 04, 2015
Phương Ngạn/Người Việt
HUẾ (NV) -Với người Việt Nam, áo giấy, vàng mã là thứ rất quen thuộc, có thể nói rằng từ người lớn cho tới trẻ con, không ai là không biết thứ này.
Làm vàng mã cho mùa Tháng Chạp. (Hình: Phương Ngạn/Người Việt)
Nếu như người lớn chau mày, lấy làm nghiêm trọng vì việc đốt vàng mã cuối năm thì với con trẻ, ánh lửa bập bùng, mùi khói ngai ngái và tàn tro bay lơ lửng luôn tạo cho chúng một khoái cảm đặc biệt.
Còn đối với người làm vàng mã, câu chuyện về đời sống cũng như tâm lý của họ thì miễn bàn, có thể nói đây là câu chuyện khá thú vị.
Kinh tế đi xuống, khói tro bay lên
Thuận, chàng thanh niên hai mươi tám tuổi, có thâm niên sáu năm kinh doanh vàng mã ở Hương Trà, Huế, cho biết rằng, “Nghề này thì bất thường, nhưng trong cái bất thường của nó vẫn có cái bình thường để mình tồn tại!”
“Ví dụ như kinh tế năm nào tệ thì vàng mã lại được đốt nhiều hoặc năm nào nạn tham nhũng cao, vàng mã cũng được đốt nhiều. Nói chung là vàng mã hay đi ngược sóng với nền kinh tế. Đặc biệt là giá vàng mã lại song song với giá đô la Mỹ.”
“Nghĩa là năm nào đồng tiền Việt Nam bị rẻ rúng bởi tình hình kinh tế chung thì vàng mã lên giá, trong khi đó, đồng đô la Mỹ đương nhiên tăng giá. Chính vì thế, đôi khi tôi nói đùa với anh em là nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế bản vị vàng mã.”
“Như năm vừa rồi, gia đình tôi ăn Tết rất khỏe, đến 27 Tháng Chạp là đã cúng tất niên vì chẳng còn xíu vàng mã nào đọng lại, người ta mua đốt sạch. Như vậy xem như một năm thắng lợi của mình nhưng lại rất buồn vì tình hình chung sẽ không được tốt.”
“Tôi làm vàng mã sáu năm, nhận ra được cái biểu kế kinh tế Việt Nam căn cứ trên vàng mã nhiều hơn là tiền thật. Đương nhiên đây là cách nghĩ cho vui nhưng trên thực tế nó phản ánh rất nhiều thứ. Có lẽ đây cũng là tâm tính của người Việt bây giờ, rất ích kỉ và rất mê tín.”
Phụ kiện cháo hoa, hạt nổ, bánh in đi kèm với vàng mã khi cúng. (Hình: Phương Ngạn/Người Việt)
“Một ông con trai đi thăm mộ mẹ, cũng cố gắng ghé quán mua vàng mã để đốt xin mẹ phù hộ cho trúng số độc đắc hoặt cho thấy số để đánh lô đề, rồi có nhiều người sắm cả chiếc xe hơi to tướng bằng vàng mã để đốt cúng cho cha mẹ, ông bà để thể hiện đẳng cấp dưới âm ti. Năm nay tôi định thiết kế cây xăng để bán những nghĩ lại làm như vậy chẳng khác nào rởm với người khuất mặt. Nghĩ vậy thôi không làm nữa!”
“Nói chung con cái hiếu thảo với ông bà, cha mẹ thì sắm bộ quần áo, đôi giày, đôi dép, ít tiền giấy đốt cúng ông bà là đủ rồi, tôi nghĩ vậy, đằng này lại nghĩ đủ trò. Mà điều này rất vô văn hóa, ví dụ như vừa rồi có ông đến đặt tui chiếc xe RollRoy để đốt cho đứa con gái chết vì đua xe. Như vậy xuống đó, nếu dùng được, nó tiếp tục lái xe RollRoy chạy bạt mạng lại gây ra tai nạn. Chẳng đâu vào đâu!”
“Đốt vàng mã là một nét văn hóa thể hiện lòng hiếu thảo, kính ngưỡng ông bà, điều này tốt thôi nhưng phải có chừng mực và giới hạn chứ cứ làm loe thì mệt lắm. Mà nền kinh tế Việt Nam càng nhiều tham nhũng thì người ta càng thi nhau đốt vàng mã. Kinh tế càng bệ rạc, khói vàng mã càng bay cao. Thế mới kì!”
Mùa Tết, thức trắng đêm vì vàng mã
Nhang và nón giấy. (Hình: Phương Ngạn/Người Việt)
Một người làm vàng mã khác tên Nguyệt, ở Phú Lộc, Huế, chia sẻ, “Mùa Tết là mùa người ta xài vàng mã gấp nhiều lần trong năm, có năm lên đến gấp hai mươi lần.”
“Vì vậy mà mình phải làm ngày làm đêm, thường thì làm những mẫu như giấy đinh, giấy tiền, vàng thỏi, nón lá, guốc mộc, khăn đóng, áo dài, áo vest, áo quần bộ… Nhưng mùa Tết người ta đặt hàng xe hơi, xe gắn máy. Có chiếc xe lên vài chục triệu đồng là bình thường, mình tốn công dữ lắm, nhưng có lãi cao nên cũng ráng mà làm.”
“Thường thì một chiếc xe họ đặt mình như vậy, kiếm cũng được từ mười đến ba chục triệu đồng, làm vất vả lắm bởi nó phải giống hệt chiếc xe thật từ kích cỡ cho đến màu sắc, mẫu mã. Mấy người nhà giàu, quan chức thường đốt loại này. Họ đặt tiền thì mình làm, làm xong phải bí mật chở đến nơi họ đốt.”
“Chính vì vậy, làm một chiếc xe loại này thu nhập tương đương với một tháng hốt bạc của mình là Tháng Chạp. Không những vậy, khi chở đến nơi mà mấy ông ấy thấy ưa thì sẽ thưởng thêm vài triệu đồng là chuyện bình thường.”
“Mà làm thì làm vậy thôi chứ đôi khi nghĩ cũng buồn vì ngay cả dưới âm ti cũng có phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo, như vậy thì e rằng sống trong đất nước này chẳng còn hy vọng gì. Một xã hội phân biệt và khoảng cách giàu nghèo quá rõ. Một tài sản cả đời của người nghèo không bằng một chiếc xe vàng mã của người giàu đốt thành tro thành khói. Nhưng mà xã hội mà, nó vốn vậy!…”
Các bộ vàng mã gồm áo vest, quần bò, áo kaki, nón…(Hình: Phương Ngạn/Người Việt)
“Nhưng mà thôi, mình chỉ biết làm, cày kiếm tiền thôi, không thèm quan tâm đến mấy chuyện đó nữa. Đôi khi nghĩ thấy buồn vậy nhưng có buồn cũng chẳng làm được gì vì xã hội này vốn vậy. Nói chung, mỗi mùa Tết là mùa kiếm cơm của nghề này, tụi tôi thức luôn đêm để làm cho kịp. Những ngày cuối năm, khi tất niên xong, tụi tôi hay rủ nhau đi thăm mộ.”
“Vì có những ngôi mộ của các anh lính Việt Nam Cộng Hòa không có người thân, cũng không được nhang khói, thậm chí mộ xiêu nấm lạc. Chúng tôi, những người làm áo giấy, vàng mã cứ đến 30 Tết lại rủ nhau ra bờ biển để thắp nhang, khấn vái cầu các anh siêu thoát và mong các anh phù hộ chúng tôi chân cứng đá mềm…”
“Tết đối với chúng tôi ý nghĩa lắm, vì ngoài chuyện kiếm cơm, chúng tôi nghĩ đến những khách hàng đích thực của mình, đó là người cõi âm, họ cần áo quần, giày dép hay tiền bạc để xài, nếu thật sự có điều này, thì phải nói đến những vong hồn bị bỏ bê, bị cô lập. Chúng tôi cúng kính họ bằng cả tấm lòng thành kính và tri ân của mình. Chính vì thế mà cuối năm với chúng tôi có chút gì đó ấm áp và thiêng liêng lắm!”
Mùa Tháng Chạp đang cận kề, những người làm áo giấy, vàng mã lại bắt đầu một mùa bận rộn. Nhưng không biết họ có bội thu nữa hay không vì tình hình kinh tế năm nay không được khả quan. Nhưng vẫn hy vọng cho họ vì nạn tham nhũng Việt Nam vẫn trong tình trạng “ổn định.” Như vậy, người làm vàng mã, tiền âm phủ vẫn có đời sống ổn định! Một cái Tết đang đến gần, và họ lại ra biển đốt vàng mã vào 30 Tháng Chạp.
………………………………………………………………………….
Fwd: Truyen ngan: Con dao xếp trong ngày Tết Tây
Kim Vu to:…,me
============
> Subject: Truyen ngan: Con dao xếp trong ngày Tết Tây
> Chiều cuối năm năm ấy…
>
> Ngoài trời mưa bay lất phất. Như cuộc tẩy trần cho sạch sẽ những gì còn sót lại của năm qua, hầu đón chào một Tân Niên tinh khôi. Những người khách sau cùng đã chào chúng tôi, về nhà chuẩn bị tiệc “CountDown” năm mới. Tôi ra mở cửa sau để hưởng chút không khí lạnh dìu dịu từ bên ngoài. Bỗng một cô thợ gọi:
>
> – Chị ơi! “Bà già gân” tới kìa! Chị đã chuẩn bị mẫu mới cho bà ấy chưa?
>
> Cô không nói tôi cũng biết, Laura bà khách già người Đức đang tới, vì tiếng nổ ầm ầm quen thuộc từ chiếc truck GMC bự chảng của bà nghe như rung rinh cả tòa nhà. Khổ rồi. Tôi than thầm. Mỗi lần bà Laura tới là tôi phải tốn ít nhất hơn một giờ đồng hồ cho bà, thay vì nửa tiếng như những khách hàng khác. Đã vậy, bà không bao giờ làm hẹn, mà chỉ ghé lại bất cứ khi nào bà rảnh. Nếu tôi bận thì bà chạy đi, lát sau trở lại.
> Tôi ra đón cái thùng dụng cụ trên tay bà Laura. Bà tự mang theo đồ nghề vì không muốn dùng đồ của shop, sợ lây bệnh. Bà vừa mừng sinh nhật thứ tám mươi tư, nhưng nhìn bà người ta tưởng chừng bảy chục. Da bà không trắng lắm. Người cao ráo gọn gàng. Ăn mặc phù hợp “tông-xuyệc-tông” từ quần áo đến nữ trang. Bà luôn trang điểm kỹ, mày cong vòng nguyệt, mắt xanh, má hồng, môi đỏ thắm. Và mái tóc nâu luôn được chải sấy kiểu cách. Bà khỏe nhiều so với độ tuổi vì nhờ biết ăn uống cẩn thận, và dù bận cỡ nào, bà cũng cố gắng đi Gym tập thể dục. Bà lái xe rất cừ khôi, mà toàn là xe tải hạng nặng.
>
> Lần đầu tiên đến, bà chạy chiếc GMC to kềnh và đậu phát một vào chỗ trống giữa hai chiếc xe trước cửa. Cả tiệm chúng tôi phục lăn, trầm trồ bà dám lái chiếc truck to mà còn đậu đẹp nữa. Bà cười: -Đó chỉ là chiếc…xe đạp của tôi! Tôi còn lái xe tải chở hàng thật dài kìa! Sau này chúng tôi biết, bà có rất nhiều xe tải vì làm chủ một cơ sở lớn, chuyên bán dụng cụ bảo vệ sức khỏe (health therapy equipment) như giường rung, nệm nước, ghế xoa bóp, máy đấm lưng, mền điện, và nhiều dụng cụ khác. Bà luôn lái xe tải dẫn đường để các tài xế công nhân chở hàng chạy theo bà tham dự hội chợ “State Fair” khắp nơi trong tiểu bang, và giao hàng tận bên Nam Cali hoặc Lake Tahoe, Reno.
> Chẳng những bà Laura mạnh mẽ, lái xe tải chạy ầm ầm, mà bà còn biết bắn súng. Khi ra ngoài, bà thường bỏ trong xe khẩu súng nhỏ để đề phòng cướp. Lần nọ bà ghé shop mặt còn vương nét hoảng sợ, nhưng lại cười rất thích thú. Bà nói vừa đến tòa án để lo một số giấy tờ. Trên đường đi, bà có chở dùm ông khách hàng một đoạn vì xe ông hư. Ông ta từng là bạn học bắn súng với bà, nên hai người lấy súng ra khoe với nhau. Không biết bằng cách nào ông nọ đã cầm nhầm súng của bà, và khẩu súng của ông ta thì lại chui vào nằm trong túi xách bà ấy.
>
> Thế mà khi bà vào cửa, máy rà an ninh của tòa án không phát hiện khẩu súng mới lạ. Bà nói trong tiếng cười sảng khoái. -Vô trong ngồi, tôi mở xách lấy cây son môi thì thấy khẩu súng nên hết hồn vội vã đứng lên đi ra. Bà nói “hết hồn” nhưng mặt vẫn tỉnh bơ: -Nếu họ thấy khẩu súng thì tôi…tiêu tùng. Vì chẳng những phạm tội mang vũ khí vào nơi công quyền, mà tệ hơn nữa, khẩu súng đó không có giấy tờ vì nó là của người khác. Có lẽ mấy chiếc lượt, cái máy sấy tí hon, và số phấn son trong xách đã che chắn cho khẩu súng của bà. Quả là cái tính “xí xọn” lúc nào cũng mang theo đồ làm đẹp đã cứu bà thoát được một “kiếp nạn” ngồi tù rất hy hữu. Do đó mà chúng tôi gọi bà là “Bà Già Gân.”
>
> Bà Laura rất khó tính, nhưng lại tốt bụng và thương người. Một lần cận Tết Âm Lịch, bà đến gặp lúc tôi đang ngồi ghi cái list gửi tiền về Việt Nam. Tôi kêu bà chờ để tôi hoàn tất danh sách gửi tiền giúp mấy người già yếu bạn của mẹ tôi ở quê ngày xưa. Tôi tiện miệng kể, dù mẹ tôi không còn nhưng thuở sinh tiền bà rất thương những bạn già trước 1975 từng có ruộng đất cò bay thẳng cánh, sau này không đủ cơm ăn áo mặc, cho nên năm nào chúng tôi cũng gửi giúp chút đỉnh để họ ăn Tết. Tôi chỉ nói để bà khỏi giận vì phải chờ. Không ngờ nghe xong bà đứng dậy ra xe lấy vào một tờ trăm đưa cho tôi và nói bà cũng muốn giúp họ.
>
> Người nhà bên Việt Nam nhận được tiền của tôi và của bà Laura, đem đổi cả ra tiền Việt, bỏ vào phong bì mang về làng cũ tặng những người già nghèo khổ ốm đau, và chụp hình gửi qua. Bà Laura rất xúc động khi nhìn hình ảnh những ông bà già hom hem áo quần rách rưới nhưng cười móm mém trong hạnh phúc khi cầm lấy bao thư. Từ đó về sau, đến Tết tôi chưa kịp nói bà đã hỏi chừng nào thì gửi tiền Tết cho mấy người già.
>
> Dù là người gan dạ, nhưng có lẽ sống một mình bà Laura cũng rất cô đơn. Bà thường trao đổi tâm sự với tôi. Độc đáo và ly kỳ nhất là câu chuyện vượt thoát kinh hoàng khỏi nước Đức của bà. Nghe chuyện, tôi mới biết bà là một trong những nhân chứng sống từ thời Đệ Nhị Thế Chiến còn lại đến bây giờ. Chuyến đi của bà cũng thật dễ sợ, hiểm nguy không kém những chuyến vượt biên của người Việt tị nạn. Sự giết người man rợ của lính Đức Quốc Xã thời Hitler làm cho chính người dân của họ cũng phải bỏ chạy.
>
> Năm 1944, thời điểm quân Hitler sắp thua, Laura mới hơn 15 tuổi. Bà được cha dắt trốn đi tị nạn. Nhưng giữa đường hai cha con bị bọn lính Đức Quốc Xã bắt lại. Để bảo vệ cô con gái nhỏ, người cha dặn dò bà cách tìm đường đến trại tị nạn rồi ông bỏ chạy qua hướng khác để cho bọn lính rượt theo. Họ bắt ông lại và bắn chết trước mắt cô con gái đang run rẩy núp trong bụi rậm gần đó. Nhìn cha bị giết, bà quá kinh hãi nên đã ngất xỉu.
>
> Laura tỉnh lại thì bọn lính bỏ đi hết. Nhớ lời cha dặn, bà đành bỏ mặc xác cha nằm trong đống xác người, lần mò đi tiếp. Trong sợ hãi và đói khát, nhiều lần bà phải rúc vào nằm chung với các xác chết bên đường, lấy máu của họ bôi vào mặt giả chết, chờ bọn lính của Hitler qua khỏi mới đứng dậy đi tiếp. Lê lết đến mười mấy ngày, thường xuyên liếm những giọt sương bên đường cho đỡ khát và nhai cả cỏ để đỡ đói. Laura theo một nhóm người vượt qua biên giới, tới được cổng trại tị nạn thì ngã vật ra vì kiệt sức.
> Cuối cùng, cô bé mồ côi được nhận đến tị nạn ở San Francisco, Hoa Kỳ. Laura kể, bà tồn tại được cũng nhờ vào lời căn dặn sau cùng của cha trước khi ông lao mình chạy đi:
>
> – Con hãy nhớ đừng bao giờ bỏ cuộc! Nếu ngã xuống thì hãy đứng lên và đi tiếp!
>
> Bà nói lời căn dặn đó đã theo bà suốt đời. Bà chưa bao giờ biết bỏ cuộc dù trong việc làm ăn hay bất cứ việc gì, cho nên sự nghiệp ngày hôm nay của bà cũng nhờ đó mà có. Hồi mới đến Mỹ, bà vừa học vừa làm ở McDonald cho đến khi lấy được bằng High School rồi lấy chồng.
>
> Chồng bà Laura, Steve, là người Mỹ, cấp bậc trung úy quân đội Hoa Kỳ. Ông mất tích trong cuộc chiến Nam Bắc Triều Tiên, để lại cho bà hai người con, một trai một gái. Dù khi ấy mới hai mươi hai tuổi, bà vẫn ở vậy một mình nuôi con chờ tin tức chồng. Người con gái lớn của bà hiện là một bác sĩ Tâm Lý, người con trai là thạc sĩ Khoa Học và bà có năm đứa cháu nội ngoại.
>
> Dù chồng mất tích hơn năm chục năm, bà Laura vẫn đợi, vẫn nghĩ Bắc Hàn còn giam giữ ông. Mỗi khi có ai hỏi cuộc chiến Triều Tiên qua lâu rồi, sao bà vẫn nghĩ chồng bà còn sống, bà trả lời, “Không có tin nghĩa là tin tốt (No news is good news), chưa có tin ông ấy tử trận thì tôi còn hy vọng. Biết đâu bọn Bắc Hàn điên khùng còn giữ ông ấy chờ dịp đòi điều kiện với Hoa Kỳ thì sao?”
>
> Tuy bà Laura đến shop gần chục năm, quen biết hết mọi người, nhưng chẳng ai dám “lãnh” bà khách này, trừ tôi, vì bà rất khó tính trong việc làm móng. Móng tay móng chân của bà đều giả và rất dài. Mùa nào kiểu nấy, từ ngày bà đến tiệm, tôi phải tự “design” cho bộ móng tay và cả mười móng chân cho bà. Những mẫu bà đòi nhiều khi thật lạ kỳ, khó vẽ. Lúc thì chiếc lá shamrock màu xanh trong ngày Thánh Patrick, khi thì con thỏ trong lễ Phục Sinh. Có lần bà mang đến một chiếc móng ngựa thật, là một cục sắt nặng chình chịch, rồi kêu tôi vẽ design y như vậy cho bà. Dù cái mẫu móng ngựa nom kỳ cục, tức cười, bà nói mang nó sẽ đem lại may mắn. Phiền nhất, mặc kệ tôi bận cỡ nào bà cũng không tha, mà bắt tôi phải vẽ trực tiếp bằng sơn chứ không chịu dán mẫu “sticker” có sẵn. -Tôi muốn độc quyền mẫu của tôi, không muốn giống kiểu với ai hết! Bà nói.
>
> Ngoài những mẫu “quái dị” trong dịp đặc biệt của riêng bà, các ngày lễ lớn trong năm bà Laura thích design theo biểu tượng. Giáng Sinh vẽ cây thông, Tạ Ơn thì gà tây, lễ Ma trái bí đỏ… Nhưng thật lạ, ngày Tết Tây bà không cho tôi vẽ ly rượu hay chữ “Happy New Year” như mọi người. Bà bắt tôi phải vẽ hình con dao xếp trên móng tay và móng chân, kể cả những móng chân út nhỏ xíu. Việc ấy quả là một cực hình cho tôi. Phần thì khách hẹn đang chờ, phần vì phải nín thở vẽ để khỏi bị lem mất công chùi đi vẽ lại, nên tôi rất căng thẳng. Lúc nào vẽ cho bà, trong bụng tôi cũng kêu khổ và rủa thầm “bà già chằng ăn!” Một điều làm tôi khổ sở hơn, là mỗi Tết Tây bà Laura bắt tôi phải vẽ những con dao xếp kiểu mẫu khác nhau, không được trùng lập với các mẫu design năm trước.
> Chúng tôi có tò mò “tra gạn” để tìm hiểu tại sao bà thích vẽ con dao xếp. Nhưng bà không nói. Riết rồi chúng tôi không hỏi nữa vì biết đó là điều riêng tư của bà.
>
> Năm nay tôi đã chuẩn bị từ sớm một mẫu vẽ rất mới cho bà Laura. Hình con dao xếp nhỏ xíu, bầu dục, chính giữa hơi eo lại nhìn rất uyển chuyển, theo một mẫu tôi tìm thấy trên online. Vỏ con dao màu huyết dụ, lóng lánh kim tuyến vàng, trên có viết tên “Laura” màu trắng. Một đầu mở ra lưỡi dao bé tí, cây dũa răng cưa bên phải, và một cái đinh xoắn khui rượu mở ra bên trái. Mới thoạt nhìn, nó giống như con rùa tí hon màu đỏ với cái đầu và hai chân trước óng ánh bạc.
>
> – Wow! Đẹp quá! Bà Laura trầm trồ, lộ vẻ xúc động khi tôi vẽ xong con dao đầu tiên trên móng tay cái của bà. Đây là mẫu đẹp nhất từ trước tới giờ đấy. Nhìn giống như thật!
>
> Trước khi ra về, bà bỗng nhìn tôi: – Này! Ngày mai là New Year, cô có rảnh không? Nếu rảnh trưa mai đến nhà tôi chơi, tôi sẽ cho cô xem một thứ, bảo đảm là cô sẽ thích!
>
> Đây quả là một lời mời bất ngờ. Tôi rất thân với bà Laura, từng nhiều lần mời bà đến nhà tôi dự tiệc, năm mới, đám giỗ, và cả đám cưới các con tôi. Nhưng bà chưa một lần mời tôi đến nhà riêng ở thành phố lân cận. Bà chỉ mời tôi đến cơ sở kinh doanh của bà, vì nó nằm cùng con đường với tiệm của tôi. Tôi thích thú nhận lời ngay không chút do dự.
>
> Ngày Tết Tây shop đóng cửa, tôi lái xe một mình đến nhà bà Laura. Ngôi nhà hai tầng nằm bên trong hàng rào cây xanh kín mít dọc con đường lớn ở vùng ngoại ô thành phố, nhưng cửa chính thì quay vào mặt đường nhỏ phía trong. Một ngôi nhà kiểu cổ (Victorian house) rất đẹp. Nhà lớn, nhưng nó như lọt thỏm vào giữa khu vườn rộng thênh thang rậm rạp cây cối. Chào đón khách ngay cổng là một chiếc xe RV (Recreational Vehicle) thật to, cửa đang mở.
>
> Tôi vừa ngừng xe, bà Laura từ trong chiếc RV bước ra chào đón. Bà nói đang dọn dẹp và trang bị các thứ trong xe để đến chiều các con cháu bà về sẽ cùng bọn họ đi chơi xa một chuyến nhân dịp nghỉ lễ.
>
> Vừa đi vào nhà với bà Laura, tôi vừa hỏi bà có sợ khi ở một mình nơi vắng vẻ thế này. Bà cười, tuyên bố một câu “xanh dờn”:
>
> – Tôi bật Alam trước khi lên lầu ngủ. Đứa nào lạng quạng mò vô, hệ thống báo động réo, tôi sẽ bắn chết chúng!
>
> Chỉ tôi ngồi ở sofa trong phòng khách, bà Laura nói chờ một chút, rồi đi ra phía sau. Gian phòng thật ấm áp với ánh lửa bập bùng trong lò sưởi. Tôi nhìn quanh, thầm khen bà chủ nhà có con mắt thẩm mỹ, đã sưu tập những bộ ly tách, bình hoa, các bộ đồ trà kiểu Á Châu rất độc đáo chưng trong tủ kính.
>
> – Qua đây Linda! Tiếng bà gọi từ phòng ăn. Tôi bước lại và suýt chút nữa không nhận ra đó là bà. Trước mặt tôi là bà Laura kiều diễm trong chiếc áo đầm trắng dài lướt thướt kiểu cô dâu. Mái tóc nâu của bà được bới lên cẩn thận. Đầu đội lệch chiếc mũ trắng có vành, đóa hoa trắng lớn với hai dây tua lấp lánh kim tuyến nằm bên phải, rũ dài theo gương mặt sáng ngời trang điểm của bà.
>
> – Wow! Bà đẹp quá! Tôi buột miệng trầm trồ. Trông giống một cô dâu!
>
> – Thì hôm nay tôi là cô dâu mà! Bà cười nói. Mồng một Tết năm nào tôi cũng kỷ niệm ngày cưới của tôi. Rồi bà lẩm bẩm: -Năm mươi mấy năm rồi…
>
> Tôi đứng sững sờ. Không ngờ một người có cá tính mạnh mẽ như bà Laura lại là người dạt dào tình cảm. Vậy mà trước giờ tôi cứ nghĩ bà cứng rắn như đàn ông.
>
> Mời tôi ngồi vào ghế xong bà lại ngồi phía đối diện. Trên chiếc bàn ăn dài bằng gỗ nâu bóng loáng, mấy món ăn đơn giản được bày sẵn. Một ổ bánh CornBread, đĩa bắp cải muối chua, khay xà lách trộn pho mát bào và các loại hạt, tô thịt bò hầm đậu, và một khúc thịt xông khói. Bà lúc nào cũng chọn món ăn tốt cho sức khỏe, tôi thầm khen.
>
> Nhìn về phía đầu bàn, tôi ngạc nhiên thấy một khung ảnh lớn lộng tấm hình trắng đen. Bên cạnh là một lá cờ Mỹ được gấp gọn gàng, và một chiếc hộp nhỏ màu đen hình chữ nhật đặt bên trên lá cờ.
>
> Đó là hình một cái đám cưới nhà binh. Chú rể cao lớn đẹp trai, oai nghi trong bộ quân phục sĩ quan, khoác tay cô dâu đang cầm bó hoa trắng, áo đầm trắng dài kiểu xưa không chấm đất, eo thật nhỏ bên dưới xòe bung, đầu đội lệch chiếc mũ trắng có hoa, giống hệt trang phục bà Laura hiện giờ. Một điều rất kỳ lạ, là cặp đôi này bước đi giữa hai hàng lính. Đối mặt với nhau, quân phục chỉnh tề, đứng nghiêm thẳng tắp, trên tay mỗi người lính đều cầm một thanh kiếm dài sáng choang. Hai hàng quân cùng đưa cao kiếm lên khỏi đầu, bên này đâu chéo kiếm lại với bên kia tạo thành một mái che cho cô dâu chú rể bước đi bên dưới.
> – Ô! Đây là đám cưới của bà ngày xưa hả? Tôi hỏi. Cô dâu chú rể trông oai quá!
>
> – Ừ, đám cưới của tôi đấy. Cô nhìn kỹ tấm hình đi, xem có thấy gì lạ không?
>
> Tôi quan sát thật kỹ tấm hình, nhưng không thấy gì ngoài cặp tân lang tân giai nhân đang đi dưới “rừng gươm” giữa hai hàng lính và một cây kiếm ai bỏ nằm dưới đất sau lưng họ.
>
> Tôi nói cho bà biết.
>
> – Đúng rồi! Cô đã thấy nó! Bà Laura gật đầu nói tiếp: Đó là cây kiếm của một trong những người lính của Steve chồng tôi. Anh ta là lính mới, và không biết vì run hay vì lạnh mà khi chúng tôi vừa bước qua khỏi anh ta là thanh kiếm vụt rời khỏi tay anh ta bay cái vèo xuống đất. Sém chút nữa là chúng tôi đã bị chém trúng rồi!
>
> – Trời! Tôi kêu lên, người nổi đầy gai ốc. Thật là một điềm rất xấu cho đám cưới.
> Bà Laura kể, có lẽ vì điềm xấu đó đã báo hiệu trong ngày cưới, mà chưa đầy hai năm sau, khi bà vừa có thai đứa con thứ nhì, thì chồng bà bị mất tích ở Đại Hàn. -Anh lính đó đã ân hận và khóc đến mù mắt khi Steve bị mất tích, vì cho là lỗi tại anh ta mang điềm xui tới cho chúng tôi trong ngày cưới. Bà thẫn thờ nói.
>
> – Đó có phải là thời kỳ chiến tranh Nam Bắc Triều Tiên? Tôi hỏi.
>
> – Đúng rồi! Steve mất tích trong trận Hồ Nước Chosin (Battle of Chosin Reservoir) ở Triều Tiên, tháng Mười Hai năm 1950. Anh ấy thuộc Sư đoàn 7 Bộ Binh Hoa Kỳ. Là cấp chỉ huy, khi trung đội anh bị vây hãm nhiều ngày và có lệnh rút lui, Steve đã cho binh sĩ rút trước. Anh tình nguyện một mình ở lại ngăn chặn địch quân.
>
> – Vậy sao? Trận Hồ Nước Chosin?
>
> Gì chứ trận Hồ Nước Chosin nổi tiếng trong chiến tranh Triều Tiên thì cả thế giới đều biết. Nhiều tài liệu cho thấy khi ấy Bắc Hàn đã thua đậm các lực lượng của Nam Hàn và Liên Hiệp Quốc đuổi đến tận vùng biên giới Đông Bắc của Bắc Hàn, nhưng nhờ đại quân Trung Cộng tràn sang trợ giúp nên mới cầm cự được. Đầu tháng 12, 1950, trong trận Hồ Nước Chosin -the Changjin Lake Campaigne- 30,000 quân Nam Hàn và quân Liên Hiệp Quốc, trong đó có Sư đoàn 7 Bộ Binh và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Ky, đã bị 67,000 quân Trung Cộng vây hãm nặng nề. Sau 17 ngày chiến trận với số thương vong lớn cho cả hai phía, quân Mỹ vẫn phá được vòng vây để rút lui. Đây là trận đánh đưa tới kết cục là quân Liên Hiệp Quốc cho thoả hiệp ngưng chiến, và Hàn Quốc bị chia đôi.
>
> Bà Laura bắt đầu kể về trận đánh cuối cùng của ông chồng, trong khi tôi ngồi im, mắt nhìn chăm chăm vào hình Steve vị chỉ huy anh hùng với lòng ngưỡng mộ. Người ta nói lại với bà Laura, khi Steve lệnh cho quân sĩ của anh chạy đi, không ai chịu bỏ đi vì họ rất thương quý cấp chỉ huy của họ. Mọi người đều nói anh không đi thì họ cũng liều chết ở lại chiến đấu đến cùng. Nhưng Steve buộc tất cả phải rút, và nói cùng lắm anh sẽ tình nguyện chịu bị bắt rồi sau trao đổi tù binh chứ anh không để mất mạng đâu. Nghe vậy mọi người mới rút đi.
>
> Bà Laura dừng lại, vói tay cầm lấy chiếc hộp màu đen bên trên lá cờ, vừa mở hộp ra vừa nói tiếp với giọng trầm khác thường:
>
> – Sau khi quân đội bình định, họ trở lại chỗ bụi cây, nơi Steve đã nằm bắn chận cho quân sĩ rút, thì không tìm thấy anh đâu cả. Họ lục lạo cùng khắp nhưng chỉ tìm được cái này. Bà đưa chiếc hộp cho tôi.
>
> Tôi đón lấy chiếc hộp đen mở náp nhìn vào. Và bỗng lặng người há hốc. Tôi nín thở, muốn kêu “Trời ơi!” Nhưng không phát ra lời.
> Trong hộp là một con dao xếp vỏ màu đỏ đậm, lóng lánh kim tuyến vàng, trên có khắc tên “Laura” màu trắng. Lưỡi dao trên đầu đã được mở ra, cây dũa răng cưa cũng mở ra bên phải, và một cái đinh xoắn mở ra bên trái. Nó giống hệt con dao xếp tôi đã vẽ trên móng tay bà Laura năm này. Thảo nào bà đã xúc động khi tôi vẽ xong con dao và nẩy ra ý định mời tôi đến nhà để cho tôi xem con dao thật. Tôi cầm con dao lên ngắm nghía với tâm trạng bồi hồi, xúc động, lẫn ngưỡng mộ.
>
> Quả là một sự trùng hợp ngẫu nhiên đầy thú vị và cảm động. Tôi chỉ vẽ theo mẫu hình con dao xếp tôi tìm thấy trên Google. Không ngờ nó lại giống y chang con dao mà mấy chục năm về trước vị sĩ quan kiêu dũng của dân tộc Hoa Kỳ đã bỏ lại cho vợ anh. Steve người chỉ huy ấy đã can đảm hy sinh để cứu binh sĩ của mình. Vợ anh Laura mất đi người chồng, con anh mất cha, nhưng anh đã được tổ quốc ghi công lưu danh thiên sử.
>
> – Đây là con dao tôi tặng Steve trong lần cuối cùng chúng tôi ở với nhau. Bà Laura chợt lên tiếng sau một lúc yên lặng. -Anh ấy đã lén bỏ nó lại như là lời nhắn nhủ trước khi bị bắt đi. Người ta đem nó đến cho tôi lúc báo tin anh mất tích. Con dao bảo tôi là anh ấy còn sống.
>
> – Từ đó đến giờ bà có nghe tin tức gì của ông ấy không? Tôi hỏi khi đã qua cơn xúc động.
– Không. Tôi luôn luôn hy vọng và chờ đợi. Nhưng mà…Bà dừng lại, chỉ vào lá cờ gấp để trên bàn: – Trước lễ Memorial Day năm nay, tổng thống Goerge W. Bush đã duyệt lại danh sách những quân nhân mất tích trong cuộc chiến Triều Tiên. Và ông ấy sai người đem đến lá cờ Mỹ này trao cho tôi cùng với lời tuyên bố là Steve đã chết. Tổng thống Bush cũng mời tôi đi Washington một chuyến để dự buổi lễ tuyên dương. Bà dừng lại một lát rồi nói giọng quả quyết: – Nhưng tôi vẫn không tin Steve đã chết!
>
> – Điều gì làm cho bà nghĩ vậy? Tôi hỏi.
>
> – Bỡi vì chính phủ cũng chưa có thông tin gì về cái chết của Steve. Khi tôi hỏi nếu anh ấy đã chết thì bằng chứng đâu, hài cốt đâu, họ không có được câu trả lời. Tôi biết là vì thời gian quá lâu nên họ đoán vậy thôi. Hiện tại còn nhiều nghìn quân nhân Mỹ, MIA (Mising In Action) mất tích trong cuộc chiến Triều Tiên chưa có tin tức, nên tôi vẫn còn hy vọng.
>
> Tôi đứng lên, bước lại ôm lấy vai người vợ lính tám mươi bốn tuổi, xúc động đến nghẹn lời. Sự thủy chung của người phụ nữ phương Tây đã quá bát tuần này cũng đâu thua kém người thiếu phụ trong “Hòn Vọng Phu” của Việt Nam tôi ngày trước.
>
> – Laura, bà nói rất đúng! Tôi cũng nghĩ như thế! Tôi thì thầm bên tai bà. -Cho nên bà cần phải giữ niềm hy vọng ấy.
>
> Người vợ của vị sĩ quan anh hùng đưa tay lên vỗ vỗ vào bàn tay tôi như muốn nói lời cám ơn. Dưới ánh sáng của chùm đèn hoa thủy tinh kiểu cách treo trên trần nhà tỏa xuống bàn ăn, những con dao xếp trên bộ móng tay bà Laura lấp lánh lung linh như những đôi cánh Thiên Thần, đang dang ra che chở cho niềm tin và hy vọng của bà.
>
> Tôi đứng im bên bà một lúc. Trong cái tĩnh lặng của buổi trưa ngày đầu năm, tiếng củi cháy tí tách từ lò sưởi vọng sang cộng với tiếng gõ tích tắc của chiếc đồng hồ cổ trên tường, bình yên như một khúc hòa tấu êm đềm, sao tôi lại cảm thấy lòng mình sóng dậy..
>
> Lát sau bà Laura mời tôi cùng bà dùng bữa. Bà nói năm nào vào ngày Tết Tây bà và các con cháu cũng đều làm tiệc kỷ niệm ngày cưới của bà rất linh đình thay cho tiệc Tết. Bữa trưa nho nhỏ này bà chuẩn bị chỉ để đãi tôi, tiệc dinner vào tối nay mới là tiệc chính. Sau đó thì cả nhà sẽ đi chơi xa.
>
> Khi tôi từ giã, Laura tiễn tôi ra xe. Trời đã quá trưa nhưng vẫn hiu hiu lạnh. Chúng tôi sóng bước trong hương gió đầu năm. Hương gió thoang thoảng nhẹ nhàng, quyện cùng mùi gỗ đốt từ lò sưởi trong nhà đưa vào không khí một mùi hương đặc thù mùa lạnh
>
> – Lái xe cẩn thận! Bà nói và vẩy tay chào khi tôi ngồi vào xe.
> Tôi hạ kính xuống vẫy lại bà. Xe ra khỏi cổng tôi vẫn còn thấy bà Laura đứng nhìn theo. Vạt áo đầm trắng của cô dâu năm xưa, sau cả nửa thế kỷ, vẫn bay bay trong cơn gió đầu năm. Hình ảnh bà Laura vẫn liêu xiêu, bà trông thật cô độc bên ngôi nhà to lớn và khu vườn rậm rạp thênh thang. Nhưng tôi biết, bà không cảm thấy cô độc tí nào. Bà đang sống với một niềm hy vọng vô biên. Niềm hy vọng có ngày được biết tin về Steve, chủ nhân của con dao xếp đỏ gửi lại trên chiến trường trận Chosin, Korea.
>
> Chúc bà may mắn. Tôi nói thầm và nhấn ga.
>
Tết Dương Lịch 2015
Phương Hoa
……………………………………………………………………….