26/03: 35.Công Chúa Da-Du-Đà-La -36.Vua A-Dục
Category: Phật Học – Phật học ôn tập-
Posted by: Tbl Đọc: 24046 lần
BƯỚC VÀO CỬA PHẬT-Quyển 2
Hoàng Hữu Nguyễn Văn Phú
Bài 35.Công Chúa DA-DU-ĐÀ-LA
1. Cách đây chừng 27 thế kỷ, tại phía Bắc nước Ấn-Độ ngày nay, có con sông Rohinī ngăn cách hai vương quốc: một thuộc bộ tộc Thích-Ca, một thuộc bộ tộc Câu-Lị. Vua Thiện-Giác (của bộ tộc Câu-Lị) lấy bà Cam-Lộ là em của vua Tịnh-Phạn (của bộ tộc Thích-Ca), sinh ra công chúa Da-Du-Đà-La. Công chúa là một người xinh đẹp, dịu dàng, thông minh và đức hạnh, có mái tóc đen bóng mượt buông dài xuống tới chân.
Vua Tịnh-Phạn lấy hai em gái của vua Thiện-Giác là Ma-Da và Ba-Xà-Ba-Đề. Hoàng hậu Ma-Da sinh ra thái tử Tất-Đạt-Đa được bảy ngày thì mất, nên thái tử được dì là thứ hậu Ba-Xà-Ba-Đề chăm nuôi.
2. Thái tử Tất-Đạt-Đa và công chúa Da-Du-Đà-La cùng tuổi với nhau. Khi thái tử được mười sáu tuổi thì phụ hoàng và mẫu hậu cho tổ chức một buổi lễ lớn trong đó một số đông công chúa được mời tham dự, mục đích là để cho thái tử chọn người bạn đời. Sau buổi lễ, cô nào cũng được thái tử tặng quà nhưng khi nguời cuối cùng…
… là công chúa Da-Du-Đà-La tiến lên thì lại vừa hết quà. Thái tử bèn lấy chuỗi ngọc mà mình đang đeo trên cổ mà đeo vào cổ công chúa. Có lẽ có một cái gì đó liên hệ giữa hai người! Nếu căn cứ vào truyện tiền thân của đức Thích-Ca thì trong nhiều kiếp trước, thái tử và công chúa đã từng là những cặp vợ chồng rất hạnh phúc và biết hy sinh cho nhau.
Hai hoàng tộc nghĩ rằng đã đến lúc tổ chức đám cưới cho hai người. Tuy nhiên, vua Thiện-Giác biết chuyện các thày tướng số trước đây, khi thái tử mới sinh, đã nói rằng thái tử sẽ xuất gia tu thành Phật, và nhà vua nghĩ rằng với lòng từ bi thì dù có sẽ lên ngôi, cũng chẳng thể dùng võ nghệ mà ra trận chiến đấu, thế thì không thể làm phò mã được. Tuy nhiên, lòng công chúa đã ngả về thái tử rồi.
Vua Thiện-Giác bèn cho tổ chức thi bắn cung, cưỡi ngựa và đấu kiếm … Nhân tài các nơi được vời về kinh đô. Thái tử thắng vẻ vang tất cả các cuộc đấu. Lúc bấy giờ, vua Thiện-Giác mới thuận gả công chúa cho thái tử! (1)
3. Trở về truyện tiền thân, thoạt đầu, vào thời Phật Nhiên-Đăng, thái tử Tất-Đạt-Đa là nhà tu khổ hạnh Sumedha. Sau bao nhiêu thời gian nỗ lực tu hành, bồ-tát Sumedha được Phật Nhiên-Đăng thọ ký cho thành Phật. Lúc ấy thì công chúa Da-Du-Đà-La là một thiếu nữ dòng quyền quý, tên là Sumita. Khi được biết rằng Phật Nhiên-Đăng đã thọ ký cho bồ-tát Sumedha thành Phật, tên là Cồ-Đàm, bộ tộc Thích-Ca vào những kiếp sau này thì nàng Sumita bèn cắt tóc, phát nguyện sẽ làm vợ của Cồ-Đàm, để hết lòng giúp chồng chứng đắc Phật quả. Do hạnh nguyện ấy và do tu hành tinh tấn trong nhiều kiếp, nàng Sumita đã là bạn đời trong rất nhiều kiếp của chàng Tất-Đạt-Đa và đã tận lực giúp chồng trên đường giác ngộ.(2)
4. Làm công nương của thái tử Tất-Đạt-Đa từ năm 16 cho đến năm 29 tuổi, thì bà Da-Du-Đà-La sinh ra hoàng nam La-Hầu-La. Ngay khi ấy thì thái tử từ bỏ cung vàng điện ngọc, gia đình đầm ấm, để ra đi tìm đường giải thoát, giải thoát khỏi mọi khổ đau cho chính mình và cho chúng sinh. Thoạt đầu, Ngài tu với đạo sĩ Ka-La-Ma rồi với đạo sĩ Uất-Đầu-Lam-Phất nhưng sau phải bỏ đi vì không thấy đường giải thoát. Rồi Ngài tu khổ hạnh với nhóm năm người, đứng đầu là ông Kiều Trần-Như (vẫn thường được gọi là năm anh em ông Kiều-Trần-Như, tuy đứng đầu mà ông này lại nhỏ tuổi nhất). Khi nhận thấy tu sĩ Tất-Đạt-Đa không tu theo cách ép xác nữa, nhóm ông Kiều-Trần-Như bỏ đi về Ba-La-Nại. Lấy lại sức nhờ một bát cháo sữa của thôn nữ Sujita, tu sĩ quyết chí tu hành cho đến khi chứng Phật quả và cuối cùng Ngài thành Phật dưới cội cây bồ-đề.
5. Khi vua Tịnh-Phạn biết con mình đã thành Phật thì cho hết người này đến người khác thỉnh đức Thế Tôn trở về thành Ca-Tì-La-Vệ. Đức Phật chấp thuận và khi Ngài về tới nơi, tất cả mọi người ùa ra đường, hân hoan cung nghinh Ngài. Chỉ có công chúa Da-Du-Đà-La ở lại trong phòng của mình và nghĩ rằng “Nếu ta còn chút đức hạnh nào thì chính đức Phật sẽ tới nơi đây”. Bà cũng chỉ cho con trai bảy tuổi của mình là hoàng tôn La-Hầu-La biết con người oai nghiêm, đẹp đẽ, bình thản đang đi đầu đoàn tăng chúng, chính là đức Phật và cũng chính là thân phụ của chú.
Bà khuyên chú xin thân phụ ban cho di sản. Về sau, khi gặp đức Phật, chú có xin như vậy. Đức Phật nghĩ rằng di sản quý giá nhất trên thế gian không phải là của cải, danh vọng, ngai vàng mà là giác ngộ và giải thoát, cho nên Ngài nhờ đại trưởng lão Xá-Lợi-Phất làm lễ xuất gia cho chú và đỡ đầu cho chú. Về việc này, có tài liệu kể rằng vua Tịnh-Phạn không vui và vua đã đề nghị với đức Phật rằng nếu một người nhỏ tuổi muốn xuất gia thì phải được cha mẹ đồng ý. Đức Phật nhận lời và điều này được ghi vào giáo luật. Có chỗ lại nói rằng người thỉnh cầu không phải là vua Tịnh-Phạn mà chính là công nương Da-Du-Đà-La.
Nhà vua thỉnh đức Phật và tăng đoàn về cung, cúng dàng trai tăng. Nhà vua kể cho đức Phật nghe: trước đây, có người đồn đức Phật đã chết trên đường tu. Đức Phật hỏi nhà vua có tin không, nhà vua trả lời: không tin. Đức Phật bèn nói một truyện tiền kiếp của Ngài và nhà vua có liên quan đến việc ấy, chúng ta có thể coi đầy đủ trong Tiểu Bộ Kinh, tập thứ VII, truyện số 447 nói về Mahā Dhamma-Pāla.
6. Khi đức Phật thọ thực xong thì Ngài đưa bát cho nhà vua cầm và Ngài đi vào phòng của công chúa, có hai đại đệ tử theo hầu (3). Ngài ngồi trên ghế kê sẵn và nói: “Hãy để công chúa đảnh lễ ta theo như ý nàng muốn”. Công chúa tiến lên đến gần đức Phật, chụm hai chân, quỳ xuống đặt đầu lên chân Ngài mà khóc. Rồi vua Tịnh-Phạn và hoàng hậu Ba-Xà-Ba-Đề kể hết đức hạnh của con dâu cho Phật nghe: “Khi con dâu ta nghe thấy Ngài chỉ khoác tấm y vàng đơn giản thì nàng bỏ hết đồ trang sức và y phục sang trọng mà chỉ đắp y vàng. Khi nàng nghe thấy Ngài chỉ dùng một bữa mỗi ngày thì nàng cũng theo như thế. Khi nàng nghe thấy Ngài nằm giường thấp gỗ cứng thì nàng bỏ hết giường chiếu sang trọng trong cung. Khi nàng nghe thấy Ngài bỏ hết tràng hoa và hương thơm thì nàng cũng làm như vậy. Một số vương tôn công tử ngỏ ý muốn cầu hôn nhưng nàng gạt bỏ hết”.
Đức Phật bèn cho mọi người biết rằng: đã nhiều lần trong những kiếp trước, công chúa từng là vợ quý của Ngài chứ không phải chỉ kiếp này mà thôi. Ngài bèn kể cho nhà vua và mọi người một truyện tiền kiếp của Ngài và Công Chúa khi còn là đôi ca-thần tên là Nguyệt Lang và Nguyệt Nga, họ thương yêu nhau hết sức và sống chết có nhau. Chúng ta có thể xem đầy đủ câu truyện ấy trong Tiểu Bộ Kinh, tập thứ VIII, truyện thứ 485 nói về Canda Kinnara.
7. Sau khi vua Tịnh-Phạn băng hà, hoàng hậu Ba-Xà-Ba-Đề hết sức phấn đấu xin được xuất gia và được như nguyện. Rồi công chúa Da-Du-Đà-La cũng được gia nhập ni đoàn, bà chứng quả a-la-hán, điều hết sức đặc biệt là bà đắc thần thông siêu đẳng (4). Bà nhập diệt năm 78 tuổi tức là trước đức Phật 2 năm. Không thấy nói đến đám tang của bà được tổ chức ra sao. Người ta chỉ nhắc lại rằng bà là một phụ nữ tuyệt vời, một người vợ tuyệt vời, một ni sư đắc đạo cao siêu. □
CHÚ THÍCH
(1) Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn thì thái tử có ba vợ chính thức không kể cung nữ: 1/ Da-Du-Đà-La 2/ Cồ Di 3/ Lộc Dã.
(2) Đây là truyện về công chúa Da-Du-Đà-La, kể trong kinh Thí Dụ, không phải trong Trưởng Lão Ni Kệ (tức Therigāthā, trong kinh đó không có nói gì đến công chúa cả. Đó là một việc gây ngạc nhiên cho chúng ta).
(3) Thông thường thì đó là hai đại trưởng lão: Xá-Lợi-Phất và Mục-Kiền-Liên.
(4) Chỉ có bốn vị đệ tử của đức Phật là có thần thông siêu đẳng nhớ lại được vô số kiếp trước: Các trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên, Bakkula và ni sư Da-Du-Đà-La.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cũng giống như các tài liệu ghi trong bài Ni Trưởng Kiều-Đàm-Di.
Xin giới thiệu một tài liệu rất hữu ích: A Mysterious Being: THE WIFE OF BUDDHA by Professsor Andre Bareau, Universite de France, (translated by Kyra Pahlen from the original French). Tài liệu này xem xét nhiều nguồn khác nhau trong các kinh sách thuộc nhiều bộ phái và nêu lên một số nghi vấn về “thân mẫu của La-Hầu-La”.
Xin bấm: http://www.buddha-kyra.com/wife.htm
Bài 36. VUA A-DỤC
1. Nói đến Ấn-Độ là nói đến một nước rất lớn, lớn đến nỗi sách vở gọi là một “tiểu lục địa”. Nước Ấn Độ rộng 3.268.000 km2 (gấp 10 lần Việt Nam). Dân số là 1.100 triệu (gấp 13 lần Việt Nam). Có rất nhiều tiếng địa phương, nhưng ngôn ngữ chính thức là tiếng hindi. Hiện nay, tôn giáo chính là Ấn-Độ giáo.
Lịch sử Ấn-Độ là một lịch sử lâu dài, nền văn minh lưu vực Ấn Hà hiện hữu từ 25 thế kỷ trước Tây lịch (tr.TL). Ấn Hà tức là sông Indus.
Trong khoảng thời gian 560-480 tr.TL, sự kiện nổi bật nhất là giáo chủ Mahāvīra của đạo Kỳ-Na (Jainisme) và giáo chủ Thích-Ca Mâu-Ni của đạo Phật ra đời truyền đạo. Sở dĩ người ta nhắc đến hai vị giáo chủ vì hai đạo chủ trương bình đẳng trong một xã hội phân chia giai cấp rất nặng nề.
Vào khoảng thời gian 320-176 tr.TL, triều đại Mô-Ri-A (Maurya, ta gọi là Khổng Tước) được thiết lập ở xứ Ma-Kiệt-Đà (Magadha). Người sáng lập ra vương triều này là vua Candragupta. Ông chinh phục hết các nước nhỏ yếu xung quanh và là người đầu tiên thống nhất được nước Ấn-Độ. Ông truyền ngôi cho con là Bindusara, ông này ngự trị trên một vùng lãnh thổ mênh mông do cha truyền lại và tiếp tục chính sách của cha. Ông có rất nhiều vợ (16 bà!) và cả trăm người con (101 người!), một trong các người con đó là A-Dục (khoảng 300-232 trước Tây Lịch). A-Dục hay A-Du-Ca là do chữ Asoka – còn viết là Ashoka – phiên âm ra. A-Dục có nghĩa là vô ưu, thoát khỏi sầu não.
2. Theo Từ Điển Phật học Hán Việt thì: Lúc nhỏ, A Dục tàn bạo lắm nên vua cha không ưa và muốn chọn người anh là Tu-Tư-Ma để truyền ngôi. Nhân có nước nhỏ Đức-Xoa-Thi-La nổi loạn, vua sai A-Dục đi bình định mà chỉ cấp cho rất ít khí giới với mục đích cho A-Dục chết trận. Nào ngờ, A-Dục thành công và cầm quyền nơi xa đó; làm phó vương miền Điểu-Xà-Diễn-Ma, lo thu thuế. Khi nghe tin vua cha bệnh nặng, A-Dục vội vàng về kinh đô chuẩn bị lên nối ngôi. Trong việc “nối ngôi” này, có những điều mờ ám, thí dụ như việc tất cả các anh em của A- Dục đều bị giết, kể cả Tu-Tư-Ma, trừ một người tên là Tì-Đại-Du-Ca sau tu thành la-hán.
Từ Điển nói trên ghi thêm một thuyết khác: “Ông đánh úp và giết chết Tu-Tư-Ma, tự lên ngôi vua. Chỉ trong vòng bốn năm, ông trừ khử người em cùng mẹ là Để-Tu, giết 99 người anh em khác mẹ, rồi lên ngôi vua, đó là khoảng 280 năm sau khi đức Phật nhập Niết-bàn”. Việc này cần phải tìm tòi thêm vì người ta nói rằng trên một cột đá, ông có nhắc đến anh em của ông.
Vua A-Dục sinh năm 304 tr.TL, lên ngôi năm 269 tr.TL lúc 35 tuổi, trị vì được 38 năm và mất năm 232 tr.TL, thọ 73 tuổi. Thật ra, năm lên ngôi cũng như năm đăng quang của vua A-Dục không được chính xác lắm. Nơi thì ghi là vua lên ngôi năm 270 tr.TL, nơi khác ghi là 265. Sách này ghi rằng vua băng hà năm 230 tr.TL, sách khác lại ghi là 232 hoặc 238. Lễ đăng quang cử hành 4 năm sau khi vua lên ngôi.
Phật học Từ Điển của Đoàn Trung Còn ghi: “Chép theo những sự khảo cứu trên những cột đá do vua dựng lên trong xứ thì vua lên ngôi năm 273 tr.TL. Vua đóng đô tại thành Hoa Thị”.
Vua A-Dục được xem là ông vua vĩ đại nhất của nước Ấn-Độ. Mới lên ngôi, vua dùng vũ lực mở mang bờ cõi, vương quốc trải rộng từ Afghanistan đến Bengal, bao gồm luôn đồng bằng sông Hằng. Tuy nhiên, trong một trận xâm chiến nước Kalinga tại bờ biển phía Đông vào năm 262 tr.TL, quân sĩ và dân chúng chết quá nhiều, kẻ còn lại thì cực kỳ lầm than. Kalinga là tiểu bang Orissa của Ấn Độ ngày nay. Một tài liệu ghi: một trăm ngàn người bị giết, năm chục ngàn người bị bắt làm tù binh và một số nhiều hơn thế chết thảm. Nhà vua động lòng thương cảm và tỏ ra hối hận vì đã gây nên binh đao và khổ đau, chết chóc. Khi vua gặp được cháu mình là tu sĩ trẻ tuổi Ni-Cù-Đà thì ông này đem Phật pháp giáo hóa cho thì vua tỉnh ngộ, có một sự biến chuyển về tâm linh và vua quy y Tam Bảo vào năm 261 tr.TL. Điều này thì có người đặt chấm hỏi. Một tài liệu khác mang tính kỳ bí hơn: Nhà vua thấy một tỳ-khưu thi triển thần thông làm cho nước sông Hằng chảy ngược nên ngưỡng mộ Phật pháp!
Không những bản thân thực hành Phật pháp mà nhà vua còn áp dụng Phật pháp trong việc trị vì đất nước. Ngưng hẳn việc dùng vũ lực chiếm đóng đất đai, nhà vua dùng mọi phương tiện để đào giếng, làm đường, xây trường học và nhà thương, trồng dược thảo, phát thuốc v.v… cho dân, nhà vua gọi đó là “chinh phục bằng giáo pháp”. Lại gửi các quan đi khắp nơi để khuyên bảo dân chúng ăn ở hiền lành, thực hành Phật pháp.
3. Về việc hoằng pháp, người ta kể rằng khi được nghe nói rằng đức Phật thuyết 84 ngàn pháp, nhà vua đã cho xây cất rất nhiều chùa, tháp, con số lên tới 84 ngàn! Những tháp này có tên là stupa, phiên âm thành phù đồ (dù xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người). Nhiều tảng đá và cột đá được dựng lên khắp nước để đề cao các giá trị Phật giáo. Thí dụ “làm lành, tránh dữ, sống từ bi, trong sạch”. Lại cho in kinh sách để cho sư sãi đọc tụng và để cho dân chúng theo đó mà tu tập.
Nhưng cũng nên nói rằng nội dung các tảng và cột đá đó (gọi chung là các sắc chỉ trên đá, rock edicts) không phải chỉ nói về Phật pháp mà còn nói đến sự nghiệp nhà vua cùng những lời khuyên răn về đạo đức, về lòng hiếu thảo, từ bi, sự tương kính giữa các tôn giáo v.v… Có một vài nhà khảo cứu nhận xét rằng: không thấy tảng đá hay cột đá nào khắc Tứ Diệu Đế cả! Và ngay cả chữ Pháp (Dhamma) dùng lúc ấy có hẳn là Phật pháp chăng? Có thể rằng ông vua khôn ngoan đó tránh va chạm người ngoại đạo trên lãnh thổ mênh mông của ông! Chưa thể đoan chắc được.
Các nhà nghiên cứu thường ghi ra những câu sau này trên một cột đá, cốt nói lên lòng khoan dung rất đáng ca ngợi của vua A-Dục: “Không được vinh danh riêng tôn giáo của mình và dè bỉu tôn giáo của người khác, phải vinh danh các tôn giáo khác vì lý do này hay lý do khác. Làm như vậy là giúp cho tôn giáo của mình phát triển đồng thời giúp cho các tôn giáo khác. Nếu làm khác thì chỉ là đào hố chôn tôn giáo của mình và làm hại các tôn giáo khác … Hòa hợp là điều tốt lành: tất cả chúng ta đều phải lắng nghe và muốn lắng nghe các chủ thuyết mà tha nhân rao giảng”.
Ở một cột khác, người ta thấy:“Trước đây, ở các nhà bếp trong cung, mỗi ngày có hàng trăm ngàn sinh vật bị giết thịt. Nhưng nay, khi viết những dòng chữ này về Giáo Pháp, chỉ còn ba con vật bị hạ thôi, hai con công và một con nai, và về sau thì sẽ không hạ con nào nữa”.
Và: “Bất cứ nơi nào trên vương quốc của ta, các hàng quan lại cứ năm năm thì phải đi kinh lý một lần để dạy Giáo pháp cho dân và dạy nhiều điều khác nữa. Vâng lời cha mẹ, bạn bè và bà con, cúng dàng các bậc bà-la-môn và sa-môn, không sát sinh là những điều tốt. Tiêu xài ít đã là tốt, mà sở hữu tài sản tối thiểu cũng là tốt …”.
Người ta đã liệt kê được những sắc chỉ trên đá: 16 tảng đá lớn, 4 tảng đá nhỏ, 4 tảng đá nhỏ nói riêng về Phật giáo và 7 cột đá, vậy là tổng cộng có 31 tảng và cột, có thể sau này còn tìm được thêm.
4. Năm 273 tr. TL., trong các chuyến hành hương đến các thánh địa Phật giáo, vua A-Dục đã đến viếng Lâm-Tì-Ni, để thành kính đảnh lễ nơi đản sanh đức Thích-Ca Mâu-Ni. Để đánh dấu việc này, nhà vua cho dựng nơi ấy một cột đá trên có khắc chữ đại ý nói rằng: “Hai mươi năm sau khi đăng quang, Nhà Vua đã đến hành hương nơi này là nơi đản sanh đức Phật. Làng Lâm-Tì-Ni được miễn thuế má, chỉ phải đóng một phần tám số lợi tức về đất đai thay vì đóng đày đủ như thường lệ”.
Khi quân Hồi xâm chiếm Ấn-Độ vào thế kỷ 13 sau TL thì họ tàn phá các chùa chiền, thánh tích Phật giáo. Lâm-Tì-Ni bị bỏ hoang phế, rừng cây che lấp hết. Năm 1896, nhà khảo cổ học người Đức là TS Alois A. Fuhrer tới Nê-Pan tìm tòi thì phát hiện được một cột đá với những chi tiết xác nhận rõ ràng nơi ấy chính thực là nơi đản sinh đức Phật.
Năm 259 tr. TL., vua A-Dục hành hương đến Bồ-đề Đạo tràng, Trên một cái bệ đắp nổi thấp (bas-relief ) tại tháp Bharhut ở Madhya Pradesh, người ta thấy hình đắp ghi lại đền và các tòa nhà khác tại Bồ-đề Đạo tràng mà vua A-Dục đã cho xây dựng.
Năm 249 sau đó, vua A-Dục hành hương đến Sārnāth là nơi đức Phật khởi đầu chuyển pháp luân, thuyết Tứ Diệu Đế cho nhóm năm anh em ông Kiều-Trần-Như. Nhà vua đã cho dựng nhiều công trình để kỷ niệm chuyến hành hương này, đặc biệt là cho dựng cột đá nổi tiếng gọi là Sārnāth Lion Capital (= Đầu cột đá có tượng Sư Tử tại đô thị Sārnāth), trên đầu cột đó có tạc bốn con sư tử quay lưng vào nhau, bốn con nhìn ra bốn phương. Bệ của tượng sư tử này là một hình trụ đá, có khắc nổi hình bánh xe pháp. Hình bánh xe được dùng trên lá quốc kỳ hiện nay của Ấn-Độ. Còn Sārnāth Lion Capital thì được dùng làm quốc huy hiện nay của Ấn Độ. Du khách thời nay muốn coi tượng Sư Tử này phải tới Viện Bảo Tàng Sārnāth.
Cũng vào năm 249 ấy, nhà vua hành hương đến Câu-Thi-Na là nơi đức Phật đại bát-niết-bàn và cho dựng tại đó nhiều cột đá.
Như vậy là tất cả tứ động tâm (nơi đản sinh, nơi thành đạo, nơi khởi chuyển pháp luân và nơi đại bát-niết-bàn của đức Phật) đều được nhà vua tới chiêm ngưỡng và dựng cột đá đánh dấu kỷ niệm. Phật tử từ xưa đến nay đều nô nức theo vết chân quý hóa ấy.
5. Sự nghiệp đáng kể nhất của vua A-Dục là đề xuất và tài trợ tổ chức Hội Kết Tập thứ ba của Phật giáo tại thành Hoa Thị, mục đích là thanh lọc Giáo Hội, loại trừ những tu sĩ giả hiệu và những tà thuyết. Tại sao có việc này?
Khi nối ngôi của ông nội và cha thì vua A-Dục vẫn theo đường lối của các vị ấy là nâng đỡ Tam Bảo và luôn cả các môn phái của những tôn giáo khác. Sau khi hối hận về các việc ác đã phạm và được cảm hóa theo Phật pháp thì nhà vua không còn chú ý nhiều đến các nhóm khác mà chỉ chủ yếu yểm trợ Phật giáo mà thôi và yểm trợ một cách hào phóng ngoài sự tưởng tượng. Thí dụ như nhà vua ban phát tứ sự cho các nhà xuất gia một cách hết sức rộng rãi, rộng rãi đến nỗi nhiều kẻ lười biếng lợi dụng, len lỏi vào hàng ngũ tu sĩ để mong hưởng lợi, đắp y mà chẳng theo một quy tắc nào, đồng thời do ngu dốt hay do xúi dục mà mang vào Giáo Hội những tà thuyết như là sự trường tồn của linh hồn chẳng hạn.
Khi nhận thấy uy tín của Giáo Hội xuống thấp, nhiều vị tăng đứng đắn từ chối dự lễ bố-tát với các tu sĩ giả hiệu. Nhà vua nghe thấy vậy, bèn cho một vị thượng quan đi thu xếp thống nhất Tăng-già, nhưng mà lệnh không rõ ràng nên khi vị quan này thấy các nhà sư đứng đắn nhất định không ngồi chung với các nhà sư giả hiệu thì ông nổi giận, tuốt kiếm chém đầu luôn hết người này đến người khác. Đến khi trông thấy sư Tỳ-Đại-Du-Ca thì quan ngạc nhiên, dừng tay lại. Tại sao? Vì Tỳ-Đại-Du-Ca là em ruột của nhà vua. Vị quan vội về tâu vua, vua bèn vời trưởng lão Mục-Kiền-Liên-Tử Đế-Tu đến để hỏi ý kiến, bàn bạc kế hoạch. Từ đó phát xuất việc triệu thỉnh một ngàn vị tăng về tham dự một Hội Kết Tập do trưởng lão Mục-Kiền-Liên-Tử chủ trì và nhà vua bảo trợ, nhằm mục đích loại bỏ các tăng giả hiệu và mọi tà thuyết. Đây là Hội Kết Tập lần thứ ba của Phật giáo, tổ chức vào năm 326 tr.TL, tại Asokārāma, thuộc thành Hoa Thị. Hội Kiết Tập kéo dài 9 tháng, với việc đọc tụng và duyệt lại Kinh tạng và Luật tạng. Để bảo vệ tính trung thực của Giáo pháp, đích thân trưởng lão đã soạn thảo một cuốn sách tên là Kathavatthu, đả phá các tà thuyết, gồm 23 chương, về sau cuốn sách này được thêm vào thành quyển thứ năm trong số bảy quyển của Vi Diệu Pháp.
Một trong các hệ quả của hội Kết Tập này là việc vua A-Dục cử các phái đoàn đi truyền bá Phật pháp khắp nơi trên đế quốc rộng lớn của ngài.
Đặc biệt nhất là phái đoàn sang nước Sư Tử tức là nước Tích Lan, Sri Lanka ngày nay, trong đó có hoàng tử Ma-Hê-Đà và công chúa Tăng-Già-Mật (con của nhà vua), là những người đã gia nhập Tăng-già từ lâu. Nơi đây, một nhánh cây bồ-đề được mang từ Bồ-đề Đạo tràng sang trồng, cây này nay vẫn còn! Phật giáo được quảng bá nhanh chóng và rộng rãi, được nhận là quốc giáo. Chùa chiền, bảo tháp được tân tạo rất nhiều.
Hội Kết Tập thứ tư được tổ chức tại Tambapanni, Tích Lan, vào năm 29 tr.TL, do quốc vương Vattagami bảo trợ. Vì ngại rằng lâu ngày, kinh điển sẽ bị quên lãng từng phần, nên trưởng lão Maharakkhita cùng 500 chư tăng tụng lại toàn bộ Tam Tạng, nhờ thế mà kinh điển được điển chế đầy đủ và đặc biệt là được ghi lên lá bối bằng chữ pali của Tích Lan.
Cho đến nay, bộ kinh điển này còn được lưu trữ nguyên vẹn và tất cả đã được Pali Text Society dịch sang tiếng Anh trong một thời gian kéo dài cả trăm năm. Phật giáo Tích Lan, với Tam Tạng đó, được gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravāda).
6. Một ông vua từ tàn ác trở thành nhân từ, từ ông ác trở thành ông thiện, từ một nhà vua đầy quyền uy trở thành một Phật tử thuần thành, sống theo chánh pháp, làm việc theo chánh pháp, cho con trai, con gái, em xuất gia, cai trị muôn dân với lòng nhân ái từ bi, chinh phục lòng người bằng đạo pháp, đem ánh sáng của Phật giáo trải khắp các nước xung quanh, hỗ trợ Hội Kiết Tập Pháp lần thứ ba để bảo vệ Giáo pháp và chỉnh đốn Tăng già, rõ ràng vua A-Dục là một vị đại đế xứng đáng với lòng tôn kính của mọi Phật tử và của mọi người. □
PHỤ LỤC.
Trên một cột đá, có ghi chỉ dụ sau đây nói về sự rạn nứt trong tăng đoàn, đã được dịch ra tiếng Anh. Trong cuốn sách Vườn Nai, Chiếc Nôi Phật Giáo của Ni cô Thích Nữ Giới Hương, Tủ Sách Bảo Anh Lạc, Chhatra Marg, Delhi-7, India, 2005, chúng ta thấy bản dịch ra tiếng Việt của cô. Cô có ghi bản dịch của HT Thích Minh Châu, đã in trong cuốn Hành Hương Xứ Phật, khác khá nhiều. Chúng tôi xin trích in vào đây để rút ra một kinh nghiệm chung: có thể tin các tài liệu đến đâu?
Schism Edict (a conflation of the various versions)
The Beloved of the Gods orders the officers of Kausambi/Pataliputra thus: No one is to cause dissention in the Order. The Order of monks and nuns has been united, and this unity should last for as long as my sons and great grandsons, and the moon and the sun. Whoever creates a schism in the Order, whether monk or nun, is to be dressed in white garments, and to be put in a place not inhabited by monks or nuns. For it is my wish that the Order should remain united and endure for long. This is to be made known to the Order of monks and the Order of nuns. Thus says the Beloved of the Gods: You must keep one copy of this document and place it in your meeting hall, and give one copy to the laity. The layman must come on every uposatha day [day of confession and penance] to endorse this order. The same applies to special officers who must also regularly attend the uposatha, and endorse this order, and make it known. Throughout your district you must circulate it exactly according to this text. You must also have this precise text circulated in all the fortress districts [under military control].
(Coi: http://www.tphta.ws/TPH_ASK1.HTM – A Translation of the Edicts of ASOKA)
“Đức vua (người ngưỡng mộ Thượng đế) đã ban sắc chỉ: Tăng chúng không được chia rẽ, bất cứ vị nào, dù tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni, phân chia bè phái sẽ phải mặc y trắng hoàn tục và đuổi ra khỏi tu viện. Sắc chỉ này phải được thông báo khắp cộng đồng tăng và ni. Hãy sao chép lại sắc chỉ này và hãy dán ở những giảng đường của tu viện và một bản sao khác cho các Phật tử tại gia. Những Phật tử tại gia đến bố tát (Uposatha) cần phải biết và thực thi nó. Vào mỗi ngày bố tát, tể tướng (Mahamatra) phải đi đến tu viện để thẩm tra. Trong khả năng có thể, quan hãy gửi sắc lịnh này đến những nơi thực hành, tất cả những tu viện và huyện, làng, tỉnh lỵ” (Vườn Nai, Chiếc nôi Phật giáo, trang 108). Liên lạc: thichnugioihuong@yahoo.com
“Đấng Thiên Nhơn sư đã dạy rằng Giáo hội tăng ni không được chia rẽ. Nếu có vị tỳ -kheo nào phá hoại giáo hội, vị ấy phải mặc đại y và phải ở một chỗ thanh tịnh chí thành sám hối. Chỉ thị này phải được tuyên bố khắp nơi cho giáo hội tăng và ni chúng được biết. Hoàng đế ban rằng một chỉ thị như vậy được chạm khắc vào chỗ hội họp, chỉ thị ấy phải được triệt để thi hành” (Đường về xứ Phật, Đại Nam, 1994, trang 62) □
Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
Bước Vào Cửa Phật -Quyển 2 -Montreal 2010
Hình: Đại Tượng Phật Di-Đà Nhật Bản – NN sưu tầm