27/04: 17. NGHIỆP BÁO . 18. LUÂN HỒI
Category: Phật Học – Phật học ôn tập-
Posted by: Tbl Đọc: 5212 lần
17. NGHIỆP BÁO . 18. LUÂN HỒI
HOẰNG HỮU NGHUYỄN VĂN PHÚ
Bài 17.NGHIỆP BÁO
Khi còn ở Saigon, tôi được một bạn kể cho nghe rằng bên nhà hàng xóm của ảnh, có một người sống không ra sống, chết không ra chết, nằm trên giường rên la suốt ngày, thỉnh thoảng rống lên như con heo đang bị chọc tiết. Hỏi chi tiết, tôi được biết cái người đau khổ kia có một thời làm nghề tra tấn tù nhân. Anh bạn tôi thốt ra câu: “Hắn đang trả nghiệp”.
Tôi lại có dịp nghe kể rằng một vị xuất gia hấp hối mãi mà không đi nổi. Tụng kinh ở bên cạnh giường bệnh nhiều biến, vẫn chưa có kết quả. Sau, vị đó xin sám hối, và nói ra một điều giữ kín từ lâu: tuy không tự tay làm ác, nhưng vị đó đã bao che cho một người phạm tội rất nặng, làm cho nạn nhân của người này uất ức, oán hận, không thể nào tả ra cho hết được. Sám hối thành khẩn rồi và được sự trợ giúp tinh thần do chú nguyện của đồng đạo, vị đó mới ra đi nổi. “Nghiệp nặng quá!”.
Vậy…
… nghiệp là gì? Chữ pàli kamma, chữ sanskrit karma phiên âm thành kiết-ma, và dịch là nghiệp. Sách Anh và Pháp giữ nguyên chữ karma, không dịch. Nghiệp là “hành động” có ý thức – chứ không phải là vô tình – của thân, khẩu và ý. Có ba nghiệp là: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Trong ba thứ này thì ý nghiệp nặng nhất. Đức Phật đã dạy: “Này các thày Tỳ-kheo, Như Lai nói rằng tác ý là nghiệp”. Tác ý là ý muốn làm, muốn hành động. Cái gì thúc đẩy tác ý? Đó là ái dục. Ái dục gốc ở đâu? Ở vô minh. Còn vô minh, còn ái dục, còn ham sống thì thân khẩu ý đều gây ra nghiệp. Chư Phật và chư bồ-tát không gây nghiệp vì đã hết vô minh, thân khẩu ý đã thanh tịnh hoàn toàn.
Thế nào là nghiệp nhân và nghiệp quả? Mỗi khi có một hành động có ý thức bằng thân khẩu ý thì đó là nghiệp nhân, nó vô hình và được chứa trong một cái kho vô hình gọi là tạng thức (tên khác là thức thứ tám hay a-lại-da-thức. Tạng nghĩa là kho). Chúng là những chủng tử, gặp đủ duyên thì chín mùi, tạo ra nghiệp quả bằng thân khẩu ý. Nghiệp quả này lại tạo nhân gieo vào a-lại-da-thức… cư thế mãi, theo đúng luật nhân quả. Như trên đã nói, thời gian từ nhân đến quả có thể mau hay chậm, cho nên nghiệp quả không phải là dễ nhận thấy, vì không dễ nhận thấy nên lắm người không sợ, cứ tạo nghiệp hoài. Họ nghĩ rằng luật nhân quả nghiệp báo là do đạo Phật đặt ra, họ không theo đạo Phật nên không quan tâm; sự thật thì luật nhân quả là một định luật phổ biến trong trời đất, ai ai cũng bị nó chi phối hết.
Chúng ta có thể tạm thí dụ tạng thức là một thửa ruộng, nếu gieo hạt thiện thì sẽ có quả thiện; ngược lại, nếu gieo hạt ác thì sẽ hái quả ác. Trên thực tế, thiện ác lẫn lộn nên quả cũng lẫn lộn, khác nhau là thiện nhiều hơn hay ác nhiều hơn và sự cố gắng tu hành của cá nhân để làm thui chột các nhân ác và tăng trưởng các nhân thiện.
Sức mạnh của nghiệp gọi là nghiệp lực. Nghiệp lực vô hình nhưng rất mạnh, khó có thể cưỡng lại nó được. Lấy thí dụ một người mê bài bạc, thói quen của hành động đánh bạc là một nghiệp, nghiệp lực thúc đẩy người đó mãnh liệt như thế nào, chúng ta đã biết, ai cũng đã nghe câu nói “cửa nhà bán hết cho chân vào cùm”. Người ghiền sì-ke ma-túy cũng như vậy. Hơn nữa nghiệp lực lại rất dai dẳng vì nhân quả, quả nhân … cứ nối tiếp nhau hoài hoài. Nghe thế thì đáng sợ, nhưng cần nhớ rằng nghiệp lực sẽ hết tác dụng khi người ta được giác ngộ và giải thoát.
Theo thời gian mà xét thì có các loại nghiệp sau này:
– hiện nghiệp: đời này tạo nghiệp, đời này lãnh quả,
– sinh nghiệp: đời này tạo nghiệp, đời sau lãnh quả,
– hậu nghiệp: đời này tạo nghiệp, nhiều đời sau mới lãnh quả,
– bất định nghiệp: quả báo xảy ra không biết lúc nào.
Theo tính chất mà xét thì có các loại nghiệp sau này:
– tích lũy nghiệp: nghiệp từ nhiều đời trước tích lũy lại,
– tập quán nghiệp: nghiệp tạo trong đời này do thói quen,
– trọng nghiệp: nghiệp nặng hơn các nghiệp khác (như giết cha mẹ… ),
– cận tử nghiệp: nghiệp lúc gần chết, rất mạnh, ảnh hưởng đến việc tái sinh.
Thông thường, nghe nói đến nghiệp, chúng ta có khuynh hướng nghĩ đến nghiệp xấu, và có vẻ sờ sợ; thật ra có nghiệp dữ, có nghiệp lành. Dù có gặp nghiệp dữ thì vẫn có thể cải nghiệp được: tạo nghiệp lành để át nghiệp dữ, vì thế mới có câu “đức năng thắng số”, điều này nói lên tính cách tích cực của đạo Phật, không chấp nhận số mạng mà chỉ nói về nghiệp và con người có thể cải nghiệp của mình, cái đó là do mình.
Khi người ta chết, ngũ uẩn (sắc, tho, tưởng, hành, thức) tan rã, tứ đại (đất, nước, gió, lửa) phân ly. Nhưng nghiệp vô hình thì còn, nó chứa sự tham sống và lòng ái dục; hai thứ này là nguyên nhân của các hành động thân khẩu ý lúc sống và kết quả lại vẫn là tham sống và ái dục. Nghiệp chứa trong kho a-lại-da. Nghiệp lực đẩy a-lại-da đi tìm một “thân” khác để tiếp tục sống và ái dục, thế là “tái sinh” mà người ta hay gọi là “đầu thai”. Gọi cái a-lại-da đó là thần thức hay linh hồn không quan trọng lắm nhưng phải nhấn thật mạnh rằng cái đó không bất biến, không trường tồn.
Kết luận: Nghiệp là động lực của dòng sinh mạng từ kiếp này sang kiếp khác. Sống là đợt sóng nhô lên, chết là đợt sóng hụp xuống, sinh tử tử sinh, đó là vòng luân hồi. □
Bài 18. LUÂN HỒI
Cách đây đã lâu, tôi có đọc vài tài liệu về ông Edgar Casey ở Mỹ, nay không nhớ rõ, nhưng đại khái, ông ta có một cái “năng khiếu” nhìn thấy kiếp quá khứ của những người khác và căn cứ vào đó mà chữa bệnh cho người ta. Tôi nhớ lờ mờ rằng có một người kia mù cả hai mắt, truy nguyên nhân bằng cách soi tiền kiếp thì vỡ lẽ ra rằng anh bị mù vì trong một kiếp trước anh ta đã chọc đui mắt những tù binh mà anh ta bắt được, nay bị quả báo.
Truyện sau này liên quan đến nhà toán học Pythagore thì tôi nhớ. Trong một tiền kiếp, Pythagore đã vây hãm thành Troie và có dùng một cái thuẫn (= lá chắn). Khi tái sanh làm Pythagore, ông đến thăm một cái đền thờ tại Hi-Lạp và nhớ lại cái thuẫn để trong đó chính là cái thuẫn mà mình đã dùng! Quý đạo hữu có tin được sự tái sanh qua chuyện này không? Dù Pythagore là một nhà hiền triết rất có tiếng, nhiều người nghe chuyện thấy lý thú nhưng tỏ ra không tin.
Tái sanh, đầu thai, luân hồi là những danh từ rất thông dụng trong Phật giáo. Ít lâu nay người ta không dùng chữ đầu thai nữa, vì một lẽ mà tôi sẽ nói sau. Chữ phạn samsàra nghĩa là lưu chuyển, du hành, thông thường các sách Anh và Pháp giữ nguyên chữ samsàra. Ta dịch là luân hồi. Luân = bánh xe. Hồi = trở về, xoay lại. Luân hồi nghĩa đen là bánh xe xoay trở lại, đạo Phật lấy hình ảnh bánh xe quay tròn để tượng trưng cho sự sinh ra, chết đi, rồi tái sinh, rồi lại chết đi… sinh tử, tử sinh nối tiếp nhau hoài hoài, điều này là cái khổ lớn nhất trong tất cả các cái khổ. Đạo Phật là “đạo thoát khổ”, là “con đường thoát khổ”, khi nói thoát khổ thì có nghĩa là thoát khỏi cảnh sinh tử luân hồi.
Luân hồi chẳng qua chỉ là luật nhân quả ứng dụng vào đời sống con người mà thôi, nhân quả, quả nhân liên tục nhưng người ta khó nhận thấy vì hình dạng của chúng sinh thay đổi không cùng. Phải có “con mắt” của bậc toàn giác mới nhận ra được.
Kinh Đại Niết-bàn có chép chuyện này: một hôm, ngài A-Nan đến hỏi đức Phật về tình trạng của một số người trong làng nọ đã chết. Đức Phật đã mô tả cho ngài A-Nan rõ tình trạng của từng người một. Kinh Bổn Sinh kể lại chuyện các tiền kiếp của đức Phật, của các đệ tử của ngài và của các kẻ mưu hại ngài.
Đối với Phật giáo, sinh tử luân hồi hầu như là một lẽ đương nhiên, Phật tử không thắc mắc, nhưng người ngoài đạo Phật còn băn khoăn, bán tín bán nghi.
Sống chết là một vấn đề rất lớn đối với con người. Có chỗ tưởng tượng ra rằng sau khi người ta chết đi, thì có hai đường, một là lên thiên đường hưởng hạnh phúc đời đời, hai là xuống địa ngục chịu tội đời đời, đời đời có ý nghĩa là vĩnh viễn như thế. Lại có phái cho rằng chết là hết, chẳng còn gì cả, nên không cần phải bận tâm nghĩ bàn. Còn đang sống ở đời, cứ hưởng thụ cho sướng, lỡ ra ngày mai chết thì không thiệt! Mà có phạm tội gì thì cố mà dấu pháp luật hoặc thuê tiền chạy tội, chẳng có kiếp sau nên chẳng có quả báo gì ráo trọi. Có chỗ khẳng định rằng sau khi chết, phần xác về với cát bụi, phần hồn sẽ “sống” ở một nơi gọi là âm cảnh, ở đó thì “dương sao, âm vậy”, cho nên phải đốt tiền bạc, quần áo, xe cộ, nàng hầu … gửi xuống cõi âm cho “họ” dùng.
Đạo Phật quan niệm rằng khi một người chết thì xác thân tan rã, tứ đại phân ly, nhưng còn một thứ vô hình là thần thức, thần thức này chứa cái nghiệp; nghiệp lực thúc đẩy thần thức này tái sanh (thần thức là a-lại-da). Ta không dùng chữ đầu thai, vì chữ này mang ý nghĩa một cái hồn bất biến và trường cửu bỏ xác thân này nhập vào một xác thân khác (réincarnation), ta dùng chữ tái sanh (renaissance, rebirth) để nhấn mạnh rằng thần thức không phải là linh hồn bất biến và trường cửu. Thật ra, cũng chỉ là một cách dùng chữ thôi, điều quan trọng là hiểu rõ sự khác biệt.
Có 10 cảnh giới, kể từ thấp lên cao: ba ác đạo (đường ác) gồm địa ngục, ngã quỷ, súc sinh; ba thiện đạo (đường lành) gồm a-tu-la, nhân, thiên [cộng là 6 đường, tức là lục đạo], bốn thánh đạo gồm thanh văn, duyên giác, bồ-tát, Phật là bốn đường không phải chịu sinh tử luân hồi.
Tái sinh vào cảnh giới nào là tùy theo nghiệp. Nghiệp ác thì vô đường ác, nghiệp lành thì vô đường lành, luật nhân duyên quả báo không hề sai chạy. Ai làm nấy chịu, “đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa” (truyện Kiều, Nguyễn Du).
Giữ tam quy ngũ giới là tu nhân thừa, sẽ tái sinh vào cảnh giới của người sung sướng. Hành thập thiện là tu thiên thừa, sẽ tái sinh vào cảnh giới của chư thiên. Tu thanh văn thừa là tu theo tứ diệu đế, đạt quả a-la-hán. Tu duyên giác thừa là tu theo thập nhị nhân duyên, đạt quả duyên giác. Tu bồ-tát thừa là tu theo lục độ ba-la-mật, đạt quả bồ-tát. Đó gọi là ngũ thừa Phật giáo.
[lẽ dĩ nhiên, không ai điên gì mà chọn ác đạo. Cũng không nên chọn đường a-tu-la vì tính nết nóng nảy. Dù tái sinh làm người sung sướng hay làm chư thiên, khi phước báo đã hết thì vẫn luân hồi. Chỉ có hàng thánh mới thoát ra khỏi luân hồi mà thôi. Nhiều người chọn tu Tịnh độ để xin vãng sinh về cõi của Phật Di-Đà, tuy chưa thành thánh nhưng không bị luân hồi, ở đó mà tu].
Thắc mắc: có người ác mà sao lại sướng? Vì nghiệp lành từ các kiếp trước còn lại. Có người hiền lành mà sao lại khổ? Vì nghiệp ác từ các kiếp trước hãy còn.
Câu “sợ kiếp thứ ba” nghĩa là gì? Kiếp này chịu khó tu. Kiếp sau sung sướng; vì sung sướng quá nên quên tu, không có phước đức “để dành”, cho nên kiếp kế đó (tức là kiếp thứ ba) chẳng có gì bảo đảm cho được sung sướng!
Ai làm nấy hưởng, sao mẹ để phước cho con được? Phải hiểu nhân và duyên. Mẹ tạo phước, sinh hoạt gia đình tốt, đó là duyên lành. Con gặp duyên lành, nên ăn ở đạo đức, do đó tự gây nhân tốt và sẽ hái quả tốt …□
Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
Bước Vào Cửa Phật-Book 1
(Hình: Chùa Lý Triều Quốc Sư , – NN sưu tầm)