28/09: 1.Kỳ bí của Kim Cang bất hoại-.2.Dalai Lama:Học làm người-3.Bố thí-.
Category: Như là Ngụ ngôn .. Những nụ cười ..
Posted by: Tbl Đọc: 5212 lần
Fwd: Kỳ bí của Kim Cang Bất hoại
Kim Vu to:….,me
http://www.medicinebuddha.org/medicine-buddha-mantra-2.gif
>>> Kỳ Bí Hiện Tượng “Kim Cang Bất Hoại”
>>> – Các nhà khoa học đang nghiên cứu và tìm câu trả lời cho hiện tượng “nhục thân” mới nhất được phát hiện ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc: Đại lão hòa thượng Diệu Trí, chuyên tu pháp môn Dược Sư, viên tịch vào ngày 25/2/2003, hưởng thọ đến 116 tuổi.
>>>
>>> Chết sau 6 ngày sắc…
… mặt vẫn hồng
>>>
>>> Các đệ tử theo lời dặn của ngài, đem nhục thân đặt vào một cái chum. Theo thông lệ Phật giáo, đúng 3 năm sau cử hành nghi thức mở chum. Ngày 25/2/2006, khi chum được mở ra, ai nấy đều kinh ngạc khi thấy nhục thân của hòa thượng vẫn nguyên vẹn, sắc mặt tươi như còn sống. Hiện tượng này đã trở thành một thách đố đối với các nhà khoa học.
>>>
>>> Đệ tử của hòa thượng Diệu Trí cho biết, trước khi hòa thượng viên tịch 3 ngày có gọi các đệ tử vào nói rằng: “Người xuất gia đến cũng tay không, đi cũng tay không. Sau khi ta đi rồi chẳng có gì để lại cho các con, chỉ để lại hình hài này cũng là vật vô giá đấy”.
>>>
>>> Sau khi hòa thượng viên tịch đến ngàythứ 6, các đệ tử kiểm tra thân xác sư phụ thấy toàn thân vẫn mềm, sắc mặt vẫn hồng nhuận. Theo lời dặn giữ lại chân thân của thầy, các đệ tử thỉnh pháp sư ở Cửu Hoa Sơn đến làm lễ khâm liệm, đặt hòa thượng vào trong chum theo tư thế tọa thiền (ngồi kiết già). Trong chum có để than củi, gỗ đàn hương và vôi, sau đó phong kín miệng chum lại, đợi đúng 3 năm sẽ mở ra.
>>>
>>> Chết sau 3 năm tóc và móng tay vẫn dài ra
>>>
>>> Tại sao nhục thân của hòa thượng Diệu Trí không bị hư hoại? Ngay các đệ tử của ngài cũng không thể biết. Họ chỉ biết rằng hòa thượng rất tinh thông về Đông y. Họ nhớ rằng, trước khi viên tịch mười mấy ngày, hòa thượng đã tịch cốc, không ăn gì, mỗi ngày chỉ uống ít nước.
>>>
>>> Điều khiến cho mọi người càng thêm kinh ngạc là sau 3 năm viên tịch hai mắt của hòa thượng vẫn mở, còn tóc trên đầu lại dài ra 1,8cm, móng tay cũng dài ra 1cm. Theo quy định nhà Phật, tóc của các hòa thượng không được để dài hơn 1 hạt gạo và sau khi hòa thượng Diệu Trí vãng sinh được 4 ngày thì các đệ tử đã cạo tóc, cắt móng tay cho người trước khi liệm.
>>>
>>> Từ ngày 9 – 17/9/2002, ở tuổi 115, sư Diệu Trí vẫn dẫn đầu một đoàn 107 người “hành cước” chiêm bái Phật ở các danh thắng Cửu Hoa Sơn,Thê Hà Tự, Bạch Mã Tự, Thiếu Lâm Tự… Sư Diệu Trí đã nói với pháp sư Điều Trần, trụ trì Thiên Trì Tự ở Cửu Hoa Sơn rằng: “Lão nạp sắp tới sẽ vãng sinh, mong pháp sư quan tâm cho một chút”.
>>>
>>> Bí quyết dưỡng sinh trường thọ của hòa thượng Diệu Trí là “Tam động, tam tĩnh, tam đạm, tam lạc”. Tam động là vận động trí não, tay và chân; Tam tĩnh là tĩnh tâm, tĩnh khí, tĩnh hành; Tam đạm là xem nhẹ quyền lực, xem nhẹ tiền tài, xem nhẹ tuổi tác; Tam lạc là vui giúp đỡ người, vui biết thường đủ, vui với chính mình.
>>> Khởi nguyên của thuyết “Nhục thân”
>>>
>>> Phong tục thờ phụng “Nhục thân Bồ tát” trong Phật giáo Trung Hoa bắt nguồn từ đời Đường. Vào năm Trinh Nguyên thứ 6 (790), thiền sư Nguyên Tế khi 91 tuổi tự biết đã sắp viên tịch bèn trở về Nam Đài Tự ở Hành Sơn, tỉnh Hồ Nam. Thiền sư từ đó không ăn, chỉ dặn đồ đệ sắc thuốc để uống.
>>>
>>> Thuốc sắc có đến hàng trăm loại do sư hái, mỗi ngày uống đến hơn 10 bát, sau khi uống thì tiểu tiện rất nhiều, mồ hôi ra như tắm. Môn đồ thấy thế đều ra sức khuyên ngăn nhưng sư chỉ cười mà không nói. Uống thuốc liên tục hơn 1 tháng sau thì sư gầy hẳn đi nhưng sắc mặt hồng nhuận, hai mắt sáng rực.
>>>
>>> Năm Trinh Nguyên thứ 10, đại sư Nguyên Tế viên tịch trong lúc đang ngồi kiết già đọc kinh. Đệ tử tuân theo lời dặn, để nguyên hơn 1 tháng sau nhục thân của sư vẫn tỏa mùi hương nên không hỏa táng như thông lệ mà đặt di thể đại sư vào quan tài bằng đá. 3 năm sau khi mở quan tài, di thể đại sư vẫn tươi như còn sống, người ta cho là Địa Tạng bồ tát giáng thế nên dát vàng toàn thân để thờ qua hơn ngàn năm.
>>>
>>> Năm 1911, gián điệp Nhật Bản là Shiro Watanabe đã đến nơi lưu giữ kim thân của đại sư Nguyên Tế ở cung Hoạt Phật, thị trấn Bộ Văn, Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến đưa về Nhật Bản, được coi là “quốc bảo”.
>>>
>>> Đến nay, nhiều nhà khoa học thế giới thường xuyên tìm đến để chiêm ngưỡng và nghiên cứu. Qua kiểm tra, trong bụng của thiền sư Nguyên Tế không có tạp vật, cơ thể thấm thuốc chống mục, miệng và hậu môn đều được bịt kín, đấy có thể là nguyên nhân cơ bản giúp thi thể không bị hủy hoại.
>>>
>>> Nhưng cho đến nay, các nhà nghiên cứu cũng chưa thể kết luận là trước khi viên tịch thiền sư đã sử dụng những loại thảo dược gì để bảo dưỡng nhục thân.
>>>
>>> “Nhục thân” vốn là từ dùng để chỉ xác thân huyết nhục do cha mẹ tạo ra. Nhưng trong Phật giáo, “nhục thân” là chỉ “toàn thân xá lợi”, tức là các bậc cao tăng hay đại thiện tri thức sau khi viên tịch thì thân xác của họ vẫn nguyên vẹn, không bị ảnh hưởng bởi sự biến đổi của thời gian, không gian mà hư hoại, tan nát, thành tựu “Kim Cang bất hoại chi thân”.
>>> Hòa thượng Diệu Trí tục danh là Thái Tùng Thương, quê ở Phúc Châu, sinh vào năm Quang Tự thứ 14 đời Thanh, tức năm 1888, sống qua 3 thế kỷ. Từ nhỏ đã theo thầy học thuốc, tu pháp môn Dược Sư.
>>>
>>> Chuyên cần học hỏi, y thuật rất tinh thông, một đời cứu người rất nhiều, trước khi viên tịch 4 ngày vẫn còn hành y. Hòa thượng là người rất nhiệt tâm với các việc công ích như cứu trợ, khuyến học, nuôi dưỡng người tàn tật, trẻ mồ côi, trồng rừng, bảo vệ động vật hoang dã…
>>>
>>> Hòa thượng thân thể khoẻ mạnh, chưa từng đau ốm, mỗi năm kiểm tra đều không phát hiện ra bệnh. Năm 2000, hòa thượng được 113 tuổi, được bình chọn là “Người cao tuổi mạnh khoẻ nhất thế kỷ” lần thứ 5 của Trung Quốc.
>>> Photobucket
……………………………………………………………………..
Vs: Dalai Lama: Học làm người
phuongkim huynh to:…,me
Dalai Lama: Học làm người
Học làm người là việc học suốt đời chẳng thể nào tốt nghiệp được!
1. Thứ nhất, “học nhận lỗi”.
Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, tất cả mọi lỗi lầm đều đổ cho người khác, cho rằng bản thân mình mới đúng. Thật ra không biết nhận lỗi chính là một lỗi lầm lớn.
2. Thứ hai, “học nhu hòa”.
Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta rất mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên. Cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì đời con người ta mới có thể tồn tại lâu dài được.
3. Thứ ba, ” học nhẫn nhục”.
Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không.
4. Thứ tư, “học thấu hiểu”.
Thiếu thấu hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm. Mọi người nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể hòa bình được?
5. Thứ năm, “học buông bỏ”.
Cuộc đời như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt nó xuống, lúc cần đặt xuống thì lại không đặt xuống, giống như kéo một túi hành lý nặng nề không tự tại chút nào cả. Năm tháng cuộc đời có hạn, biết buông bỏ thì mới tự tại được!
6. Thứ sáu, “học cảm động”.
Cảm động là tâm thương yêu, tâm Bồ tát, tâm Bồ đề; trong cuộc đời mấy mươi năm của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.
7. Thứ bảy, “học sinh tồn”.
Để sinh tồn, chúng ta phải duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh; thân thể khỏe mạnh không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bạn bè yên tâm, cho nên đó cũng là hành vi hiếu đễ với người thân.
Tất cả chân lý đều ở trong cuộc sống này, khi sống với tham sân si thì đó là luân hồi đau khổ, khi đoạn tận tham sân si thì đó là Niết-bàn tịch tịnh. Vậy bài học là thấy ra đâu là đau khổ, đâu là Niết-bàn và nguyên nhân của nó ngay trong chính mình và cuộc sống chứ không phải cố gắng cho những ảo tưởng ở tương lai… Lắng nghe, quan sát lại chính mình trong tương giao với cuộc sống, sẽ thấy ra (vipassati) mọi chân lý mà chư Phật đã chứng ngộ.
“ Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc. Sức mạnh của đàn bà là phẩn nộ. Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí. Sức mạnh của vua chúa là quyền uy. Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo. Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa. Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát. Sức mạnh của sa môn là nhẫn nhịn.”
Phần lớn chúng ta khổ vì muốn được thường, lạc, ngã mà không thấy vô thường, khổ, vô ngã trong vạn pháp. Trong vô thường mà muốn thường hằng, trong khổ đau mà muốn hạnh phúc, trong vô ngã mà muốn đó là ta, của ta và tự ngã của ta: Đây được gọi là những điên đảo tưởng.
Mọi sự mọi vật do duyên sinh đều có biến đổi, có thành hoại, có sinh diêt. Do đó ai muốn chúng thường còn thì tự chuốc lấy khổ đau. Ví dụ như hoa Mai có nở có tàn nhưng ai muốn hoa Mai nở mãi không tàn thì sẽ khổ đau thất vọng
Mọi sự mọi vật do ái dục + vô minh, tức tham-sân + si chi phối trong các hành động tạo tác mà đưa đến sầu khổ. Ví dụ như đời người có sinh, già, đau, chết nhưng ai tham sống sợ chết thì sẽ khổ đau phiền muộn.
Mọi sự mọi vật vốn vận hành theo quy luật tự nhiên của chúng, còn ý niệm “ta, của ta, tự ngã của ta” được gán ghép vào đó chỉ là ảo tưởng. Và chính ảo tưởng này đem lại khổ sầu. Ví dụ như mắt thấy mà cho là “ta thấy”, tai nghe mà cho là “ta nghe”… rồi “đây là con ta”, “đây là tài sản của ta”… nên mới khổ.
Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới chung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ”
“Ra đời hai tay trắng.
Lìa đời trắng hai tay.
Sao mãi nhặt cho đầy.
Túi đời như mây bay”.
Hãy thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình.
Khi còn tranh cãi nhau về cách lập ngôn hay còn chấp giữ hệ thống lý thuyết riêng của mình thì vẫn còn chưa thấy Chân Lý… Chính ý niệm của con người chia cắt manh mún Sự Thật thành cái của tôi và của anh mà thôi.
Có hai cách biết: Một là cái biết thực tính (paramattha), hai là cái biết chế định (paññatti) với khái niệm. Khi biết thực tính thì không qua khái niệm và không phản ứng tạo tác (không làm: vô vi, hoặc làm mà không tạo tác: duy tác).
Khi biết chế định với khái niệm thì có hai cách: Một là làm thiện theo nhu cầu cần thiết, hai là làm bất thiện theo tà kiến và tham ái. Vì vậy, thấy biết chân thật là chính, còn làm hay không là một động lực tất yếu từ sự thấy biết này.
“Sống với đạo Phật:
– Nếu không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như chánh pháp; đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác.
– Nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quán sát, học hỏi những thiện tri thức; đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân”.
“Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu.
– Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô.
– Anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh”.
– Trong lành là tuyệt đỉnh của Giới.
– Tĩnh lặng là tuyệt đỉnh của Định.
– Sáng suốt là tuyệt đỉnh của Tuệ.
Thực ra, chỉ có buông xả mới đạt được tuyệt đỉnh của Giới Định Tuệ mà thôi…
“Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác. Ví như trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Vì thế, nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí tuệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.”
Hãy tin vào tất cả nhưng cũng đừng tin vào điều gì cả, hay nói chính xác hơn là đừng bám víu vào bất cứ điều gì. Tin vào mọi sự, mọi người, mọi vật… vì tất cả điều gì đến với mình đều có nhân duyên với mình, đều là bài học giúp mình học ra cái đúng cái sai, cái xấu cái tốt, cái chân cái giả…Do đó phải biết ơn và phải học cho thật nhiệt tình, tận tâm và chuyên chú… chứ không nên chểnh mảng. Nhưng phải cẩn thận, đừng bám víu vào điều gì, vì bám víu là dính mắc, dính mắc là trói buộc, trói buộc là đau khổ, là không còn thong dong tự tại…
“Hạnh phúc không phải là thứ có sẵn, Nó đến từ chính hành động của bạn.. .Tín ngưỡng của tôi rất đơn giản. Không cần có các chùa chiền, không cần các triết lý cao siêu. Tim và óc của tôi là các chùa chiền; triết lý của tôi là lòng tốt.
Dalai Lama
……………………………………………
BỐ THÍ
phuongkim huynh to:…,me
> Subject: Fwd: [AiHuu_KTDN] BỐ THÍ
>>>> Một người nghèo hỏi Đức Phật : “Tại sao con nghèo như thế?”
>>>> Phật nói : “Vì con chưa học được cách bố thí cho người khác.”
>>>> Người ấy nói : “Con không có thứ gì cả, thì lấy gì con bố thí.”
>>>> Đức Phật dạy : “Cho dù con hoàn toàn không có cái gì, con vẫn có thể thực hiện bố thí 7 điều này :
>>>> …
>>>> 1. Nhan thí – Bố thí nụ cười,
>>>> 2. Ngôn thí – Bố thí ái ngữ, nói lời hay.
>>>> 3. Tâm thí – Bố thí tâm hòa ái, lòng biết ơn.
>>>> 4. Nhãn thí – Bố thí ánh mắt nhìn thẳng hiền từ.
>>>> 5. Thân thí – Bố thí hành động nhân ái.
>>>> 6. Tọa thí – Bố thí nhường chỗ cho người cần.
>>>> 7. Phòng thí – Bố thí lòng bao dung